Bà Lê Thị Thanh Lâm, Phó Tổng Giám đốc CTCP Sài Gòn Food, cho biết 100% nguyên liệu phục vụ cho việc chế biến xuất khẩu (XK) của doanh nghiệp (DN) này đều phải nhập khẩu (NK).
"Xem như chúng tôi là DN làm gia công và tái xuất thủy sản chứ không sử dụng nguyên liệu trong nước", bà Lâm nói.
Nhập để gia công tái xuất
Ngoài việc NK nguyên liệu rồi gia công tái xuất, công ty kết hợp tiêu thụ tại nội địa. Đơn cử như NK cá hồi, sau khi chế biến phần thân để XK, phần đầu bán tại Việt Nam. Tương tự là cá basa được NK để vừa bán tại Việt Nam với các kích cỡ phù hợp, vừa gia công chế biến để xuất trở lại Nhật Bản.
Theo bà Lâm, mảng XK của công ty thực ra là gia công tái xuất hầu hết nguyên liệu thủy sản NK từ nước ngoài. Nhiều DN chế biến thủy sản khác ở Tp.HCM cũng như vậy, bởi nguồn nguyên liệu thủy sản tại Việt Nam ngày càng bấp bênh, mùa vụ không ổn định.
Một số liệu thống kê mới đây từ Tổng cục Hải quan rất đáng lưu tâm: kim ngạch NK thủy sản 10 tháng năm 2018 đã đạt hơn 1,41 tỷ USD, tăng 22,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, NK từ thị trường Ấn Độ chiếm tới 21%, tiếp đến là Na Uy, ASEAN, Đài Loan, Trung Quốc, Nhật Bản.
Việc gia tăng NK này được lý giải một phần do hồi quý II, nhiều DN chế biến thủy sản thiếu 60 – 80% nguyên liệu, cao hơn gấp đôi so với con số thiếu 30 – 40% trong quý I.
Trong khi đó, tính toán ước lượng cách đây hơn một năm cho thấy đã có tới hơn 300 DN phải NK nguyên liệu thủy sản để gia công chế biến. Việc sản xuất XK như là một cách để DN thủy sản giữ khách hàng, người lao động và gia tăng kim ngạch XK hàng năm.
Nếu như năm 2011, Việt Nam chỉ chi hơn 541 triệu USD để NK thủy sản thì đến năm 2016 đã tăng lên hơn 1,1 tỷ USD. Với kim ngạch NK thủy sản 10 tháng qua, chỉ sau 7 năm, giá trị NK thủy sản đã tăng gấp ba lần.
Theo số liệu của giới chuyên gia, khoảng 80 – 85% lượng NK thủy sản hàng năm được dùng cho gia công và sản xuất XK, đóng góp khoảng 14 – 25% giá trị kim ngạch XK thủy sản. Xu hướng này được dự báo sẽ còn tiếp tục gia tăng trong thời gian tới để tạo lợi thế cạnh tranh về chế biến.
Nguồn nguyên liệu NK nhiều nhất vẫn là tôm và các loại cá (trong đó có một số loại cá trong nước không có hoặc có ít). Do tôm nguyên liệu trong nước thiếu hụt, có lúc giá tôm trong nước cao hơn tôm của Ấn Độ 1-2 USD/kg, là nguyên do buộc nhiều DN phải nhập nguyên liệu tôm từ Ấn Độ để bảo đảm thời gian giao hàng cho đối tác cũng như tính hiệu quả trong kinh doanh.
![]() |
Nguồn nguyên liệu thủy sản trong nước không ổn định |
Nhiều mối lo
Để khắc phục việc thiếu tôm nguyên liệu, Bộ NN&PTNT gần đây đã gửi công văn tới các địa phương có nuôi tôm nước lợ về việc tăng cường nuôi tôm nước lợ trong các tháng cuối năm 2018. Nguyên nhân là trong những tháng đầu năm 2018, do ảnh hưởng của thị trường thế giới, giá tôm nguyên liệu trong nước giảm mạnh đã tác động không tốt đến hoạt động sản xuất, tiêu thụ tôm nước lợ.
Hoặc như cá ngừ, do nguồn nguyên liệu trong nước không đủ nên các DN trong nước hàng năm phải NK trên 40.000 tấn cá ngừ các loại để cung cấp cho 80% công suất hoạt động của nhà máy nhằm ổn định việc làm cho hơn 5.000 công nhân và tạo kim ngạch XK hơn 150 triệu USD, chiếm khoảng 90% kim ngạch XK cá ngừ.
Theo đánh giá, tình trạng thiếu nguyên liệu trong nước cho chế biến XK (thiếu 30 – 40%) đã và đang tiếp tục là trở ngại lớn và tạo sức ép cơ bản cho các DN chế biến XK thủy sản. Điều đáng nói, việc dự báo nguồn cung nguyên liệu thiếu chính xác dẫn đến sự mất cân đối cung – cầu là một phần nguyên nhân của chuyện này.
Hiện nay, khoảng hơn 100 DN có nhà máy chế biến mà nguồn NK chiếm 20 – 90% tổng lượng nguyên liệu. Có nguyên liệu NK, DN mới có nguồn nguyên liệu dự trữ để chủ động trong sản xuất, chủ động ký kết hợp đồng với đối tác.
Thực tế, nguồn nguyên liệu thủy sản trong nước thiếu hụt (kể cả khai thác và nuôi trồng) là do tài nguyên hải sản ở biển đã cạn kiệt, diện tích nuôi trồng thâm canh ngày càng thu hẹp do chính sách ưu tiên phát triển đô thị và khu công nghiệp của nhiều tỉnh, ảnh hưởng của thiên tai và dịch bệnh… làm cho số lượng và chất lượng nguyên liệu thủy sản đủ tiêu chuẩn để cung cấp cho chế biến XK ngày càng giảm sút.
Như lo ngại của bà Lê Thị Thanh Lâm, nếu như DN chế biến thủy sản còn lệ thuộc vào nguồn nguyên liệu NK sẽ kéo theo áp lực về thời gian cung cấp. Quan trọng nhất là nếu như khách hàng yêu cầu một số lượng sản phẩm chế biến lớn, DN không thể chủ động được nguyên liệu trong sản xuất để cung cấp cho thị trường. Để đáp ứng, DN phải có lượng hàng tồn kho khá dài, dẫn đến để dòng vốn tồn đọng.
"Đó chính là những khó khăn cho vấn đề nếu như chúng ta không chủ động và lệ thuộc nhiều vào nguồn nguyên liệu thủy sản NK từ nước ngoài", bà Lâm nhấn mạnh.
Thế Vinh