Thống kê cho thấy, 5 tháng đầu 2017, xuất khẩu thủy sản sang thị trường Mỹ – một thị trường chủ lực lâu nay, chỉ đạt hơn 461 triệu USD, giảm 12,7% so với cùng kỳ năm 2016. Con số này dường như tỷ lệ nghịch với tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản của cả nước trong 5 tháng qua, đạt khoảng 2,76 tỷ USD, tăng trưởng 7,5%.
Trong khi đó, xuất khẩu thủy sản sang thị trường EU, thị trường xuất khẩu lớn thứ ba của Việt Nam, cũng giảm nhẹ 0,7%. Riêng việc xuất khẩu giảm đã kéo Mỹ từ thị trường nhập khẩu nhiều thủy sản của Việt Nam xuống vị trí thứ hai sau Nhật Bản hiện nay.
“Bẫy” phân khúc thấp
Theo nhận định của Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), xuất khẩu sang thị trường Mỹ giảm và dự báo sẽ khó hồi phục trong bối cảnh thuế chống bán phá giá, chương trình thanh tra cá da trơn sẽ áp dụng chính thức từ tháng 9/2017, thị trường tiền tệ xáo trộn và tăng rào cản kỹ thuật, thuế quan và bảo hộ.
Cũng theo VASEP, không chỉ vướng tại Mỹ, xuất khẩu cá tra còn gặp khó tại thị trường EU do nhu cầu tiêu thụ chưa hồi phục cùng với áp lực từ truyền thông bôi nhọ tại một số nước.
Do ảnh hưởng của truyền thông tiêu cực, cạnh tranh mạnh mẽ từ sản phẩm cá thịt trắng, cá biển, nên có thể trong quý II/2017, xuất khẩu cá tra sang thị trường EU tiếp tục dừng ở mức tăng trưởng âm.
Điều đáng nói là một số DN Việt, đơn cử trong ngành hàng cá tra, tôm đang có xu hướng giảm xuất sang thị trường có giá cao nhưng có rào cản kỹ thuật ngày càng cao như Mỹ, EU, để chuyển sang thị trường dễ tính như Trung Quốc (5 tháng qua, thị trường này tăng trưởng hơn 20%).
Theo Ts. Nguyễn Thị Hồng Minh, nguyên Thứ trưởng Bộ Thủy sản, đây là vấn đề đáng quan tâm khi một số DN của ta bị mất uy tín, các tiêu chuẩn không đạt được, bản thân các DN này đã tìm đến những thị trường xuất khẩu giá rẻ hơn, dễ tính hơn.
“Vô hình chung, nhiều DN xuất khẩu nếu cứ làm như vậy sẽ kéo phân khúc thị trường của cá tra Việt Nam xuống thấp. Nghiên cứu của một tiến sĩ người Việt đang sinh sống ở Đan Mạch mới đây có nhận định phân khúc cá tra của Việt Nam đang ở phân khúc thấp nhất”, Ts. Minh lưu ý.
Trước vấn đề hàng rào kỹ thuật và nhất là các tiêu chuẩn khắt khe từ Mỹ, EU trong việc nhập khẩu thủy sản, theo Ts. Minh, yêu cầu đặt ra cho các DN Việt bây giờ là phải đáp ứng được các tiêu chuẩn quốc tế đó. Song đáng lo là hiện nay có tình trạng nhiều DN than rằng khó làm quá.
Tuy nhiên, thực tế là xuất khẩu thủy sản trước đây cũng từng chật vật đối mặt với tiêu chuẩn quốc tế HACCP (được nhiều nước trên thế giới quy định bắt buộc áp dụng trong quá trình sản xuất, chế biến thủy sản) mà nhiều DN từng ví von như từ “dưới đất nhìn lên trời”. Nhưng cuối cùng các DN vẫn phải làm, phải cố gắng đáp ứng các tiêu chuẩn.
![]() |
Để ngăn đà giảm vào thị trường Mỹ, EU, các DN xuất khẩu thủy sản cần tự thay đổi, có chiến lược dài hơi
Đáp ứng các tiêu chuẩn
Vì vậy, khi thấy hiện trạng sụt giảm xuất khẩu thủy sản vào Mỹ, EU mà việc đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe được xem như là điều kiện cần thiết, bản thân các DN xuất khẩu thủy sản Việt phải thay đổi theo. Bởi vì, nếu các DN chỉ đáp ứng những tiêu chuẩn trong nước hoặc những thị trường dễ tính sẽ khó tăng thêm giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản.
Do đó, giới chuyên gia khuyến nghị, các DN xuất khẩu thủy sản Việt Nam, nhất là các ngành hàng như cá tra, tôm, cần thay đổi cách tiếp cận và chiến lược xuất khẩu sang thị trường Mỹ, EU.
Trước hết, đáp ứng các tiêu chuẩn mà họ đặt ra, tăng cung cấp những sản phẩm cao cấp, chất lượng cao. Bởi vì, yếu tố giá thấp không ảnh hưởng và không phải là lựa chọn của người tiêu dùng ở hai thị trường quan trọng này.
Phải thấy rằng, thị trường Mỹ, EU là hai thị trường lớn, quan trọng đối với xuất khẩu thủy sản Việt Nam trong những năm gần đây và dự báo tiếp tục là các thị trường tiềm năng cho thủy sản Việt Nam trong những năm tới, nhất là thị trường EU, khi Hiệp định định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) sẽ có hiệu lực vào thời gian tới.
Tuy thủy sản Việt có thể có lợi thế về mặt thuế quan từ EVFTA, song thị trường EU có những yêu cầu đặc thù, quy định chặt chẽ về tiêu chuẩn chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm. Bên cạnh đó, ngoài chính sách chung về yêu cầu mặt hàng thủy sản nhập khẩu, mỗi nước lại có yêu cầu riêng phù hợp với đặc thù thị trường của nước đó.
Vì vậy, điều này phần nào lý giải nguyên nhân khiến các DN xuất khẩu thủy sản của Việt Nam chật vật tại EU. Việc sụt giảm tăng trưởng xuất khẩu thủy sản vào EU trong 5 tháng qua đã chứng minh cho điều đó. Cho nên, các DN cần hết sức lưu ý để có chiến lược dài hơi khi muốn thâm nhập thị trường này.
Còn với thị trường Mỹ, như chia sẻ của ông Rick Gilmore, Chủ tịch Diễn đàn An toàn Thực phẩm Toàn cầu (GFSF), đây là lúc mà các DN Việt nên tuân thủ những đạo luật về an toàn thực phẩm tại Mỹ vốn được lập ra để xây dựng các “rào cản” nhằm mục đích giảm thiểu những thiệt hại đối với đơn vị sản xuất chế biến nông thủy sản của họ.
Như vậy, có thể thấy, nếu muốn ngăn đà giảm xuất khẩu thủy sản vào hai thị trường lớn là Mỹ và EU, đòi hỏi trước tiên là các DN Việt phải tự thay đổi nếu không muốn bị “đá” văng ra khỏi thị trường khi ngày càng có nhiều đối thủ cạnh tranh.
Còn việc quay lưng và tăng xuất khẩu thủy sản sang thị trường dễ tính như Trung Quốc có thể làm đẹp con số tăng trưởng xuất khẩu thủy sản trong năm nay. Nhưng để gia tăng giá trị kim ngạch xuất khẩu ngành hàng này, nhất định các DN Việt không thể bỏ cuộc hoặc lơ là thị trường Mỹ và EU.
Thế Vinh