Giới chuyên gia quốc tế lưu ý Việt Nam đang có những bước đi trái chiều với xu thế chung của thế giới khi xây dựng các nhà máy nhiệt điện với tổng công suất lên tới hơn 55GW vào năm 2030, và nhiệt điện than sẽ vẫn chiếm tới 53% tổng cơ cấu nguồn điện trong 15 năm tới.
“Độc” như điện than
Điều đó đã được cảnh báo tại hội thảo “Ngã rẽ năng lượng: Thay đổi để ứng phó với biến đổi khí hậu” do Liên minh Năng lượng Bền vững Việt Nam (VSEA) phối hợp Phong trào 350.org (phong trào toàn cầu về biến đổi khí hậu) tổ chức tại Tp.HCM ngày 27/4.
Theo báo cáo của Đại học Harvard, hiện nay nhiệt điện than gây ra cái chết cho 4.300 người Việt Nam mỗi năm. Điều đáng lo ngại nhất là Việt Nam hiện có 12 nhà máy nhiệt điện than phân bổ cả nước.
Giới chuyên gia cho rằng Việt Nam là nước đứng thứ ba trên thế giới trong việc xây dựng các nhà máy điện than trong khi thế giới đang chuyển hướng sang năng lượng tái tạo trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu.
Chẳng hạn như Trung Quốc đã chuyển hướng trong việc sử dụng than đá. Năm 2014 và 2015, việc sử dụng than đá làm năng lượng ở Trung Quốc có chiều hướng giảm với 3,6%.
Trong khi đó, những năm tới đây sẽ có khoảng 50 nhà máy được xây dựng, tập trung chủ yếu ở trung tâm hoặc ngay sát khu vực đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL)…sẽ gây tác động lớn đến môi trường cũng như sản xuất nông nghiệp.
Ông Phạm Thành Trung, một chủ doanh nghiệp nông sản ở Bến Tre, than thở: “Hiện tại quê tôi đang bị hạn hán, xâm nhập mặn ảnh hưởng nặng nề nhất từ trước đến nay, điều đó khiến tôi bắt đầu quan tâm đến biến đổi khí hậu. Gần đây lại được nghe về việc xây dựng các nhà máy điện than mới ở Đồng bằng Sông Cửu Long sẽ làm cho biến đổi khí hậu nặng nề thêm, tôi thực sự hoang mang, lo lắng”.
Theo giới nghiên cứu, bụi siêu nhỏ PM2.5 trong khí thải của nhiệt điện than có thể bay xa hàng trăm kilomet, gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng cho sức khỏe cũng như tác động đến chất lượng đất và mùa màng ở nhiều nơi. Trong khi đó, tại Việt Nam, các nhà máy điện than mỗi năm thải ra môi trường khoảng 10.000.000 tấn xỉ, đây chính là thách thức lớn.
Trong một báo cáo trước đây, ông Trần Đình Sính, Phó Giám đốc Trung tâm Phát triển sáng tạo xanh (GreenID – thuộc Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam), đã từng cảnh báo tác động hiện tại khiến ô nhiễm không khí ở ĐBSCL gia tăng do ảnh hưởng của PM2,5 (những hạt bụi nhỏ 2,5 micrômét).
![]() |
Việt Nam đang dấn sâu vào nguồn điện than mà không lường trước các vấn đề ô nhiễm không khí từ các nhà máy điện than
Cần điều chỉnh
Một điểm cần lưu ý là trong Quy hoạch điện VII được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt cho biết đến năm 2030, điện than sẽ là nguồn phát điện chính, công suất của các nhà máy nhiệt điện đốt than được quy hoạch sẽ cao hơn 2,5 lần so với tổng nguồn phát vào năm 2013.
Theo phương án cơ sở của Quy hoạch điện VII vào năm 2020, tổng công suất của hệ thống điện dự kiến là 67.000 MW, trong đó điện than là 30.700 MW (46%), thủy điện 17.700 MW (26,4%), nhiệt điện khí dầu 12.500 MW (18,7%), năng lượng tái tạo 3.000 MW (4,7%) và các loại khác là 4,3%. Và đến năm 2030, tổng công suất của hệ thống là 137.000 MW trong đó nhiệt điện than là 76.300 MW (55,7%).
Theo quy hoạch, có 6 loại dự án nhà máy điện đốt than của Việt Nam đến năm 2030. Loại một là 26 dự án nhà máy điện than đang vận hành có tổng công suất 13.105MW. Loại hai là 16 dự án nhà máy đã khởi công, đang triển khai xây dựng có tổng công suất 15.125MW, trong đó EVN có 4 dự án với tổng công suất 3.705MW.
Loại ba là 12 dự án nhà máy điện than đã xác định chủ đầu tư, chưa khởi công, đang triển khai các bước chuẩn bị và thực hiện đầu tư có tổng công suất là 16.660MW
Vấn đề đặt ra là để có đủ nguồn năng lượng, Việt Nam đang dấn sâu vào nguồn điện than mà không lường trước các vấn đề ô nhiễm không khí từ các nhà máy điện than. Điều đó đòi hỏi trong Đề án điều chỉnh Quy hoạch điện VII của Bộ Công Thương trình Thủ tướng Chính phủ vào thời gian tới cần hết sức lưu ý vấn đề này.
Năm 2015, Tập đoàn điện lực Việt Nam (EVN) đã tăng công suất thêm 3.400 MW từ các nhà máy điện và các nhà máy điện này tiêu thụ gần 10 triệu tấn than đá/năm.
Theo dự báo, từ năm 2020, Việt Nam phải nhập 46,7 triệu tấn than và từ năm 2030, phải nhập 157 triệu tấn than mỗi năm nhằm đáp ứng nhu cầu năng lượng. Từ chỗ là nhà xuất khẩu than đá, giờ đây, Việt Nam đã dần trở thành nhà nhập khẩu.
Rõ ràng, để các nhà máy điện than hạn chế tối đa phát thải khí nhà kính, giảm tác động xấu đến môi trường, theo chuyên gia năng lượng Tô Quốc Trụ, cần lựa chọn chủng loại than hợp lý. Do đó, hai ngành Than và Điện cần giải quyết tốt nguồn than nhập khẩu, biết được chính xác chủng loại than ngay trong giai đoạn dự án nhà máy nhiệt điện được triển khai ở bước chuẩn bị đầu tư.
Thế Vinh