Những thống kê gần đây cho thấy, bất chấp các trở ngại do dịch Covid-19 gây ra, xuất khẩu (XK) giày dép của Việt Nam vẫn đang có nhiều lợi thế nhờ vào việc tận dụng tốt quy tắc xuất xứ hàng hoá trong các FTA.
Kinh nghiệm từ xuất khẩu giày dép
Chỉ tính riêng 5 tháng đầu năm 2021, XK giày dép đạt kim ngạch gần 8,4 tỷ USD, tăng 25,5% so với cùng kỳ năm 2020. Trong đó, đáng chú ý là XK sang thị trường EU đạt 1,92 tỷ USD, chiếm 22,9% tổng kim ngạch XK giày dép của Việt Nam, tăng 26% so với cùng kỳ năm trước.
![]() |
Trách nhiệm của DN Việt đối với tự chứng nhận xuất xứ cần được nhấn mạnh và yêu cầu cao hơn. |
Trong việc phục hồi tăng trưởng XK ở thị trường EU cần phải ghi nhận ngành giày dép của Việt Nam đang tận dụng tốt ưu đãi thuế quan từ FTA Việt Nam - EU (EVFTA) khi đáp ứng tốt về quy tắc xuất xứ.
Theo nhận định của các chuyên gia Bộ Công Thương, nhóm ngành da giày là một trong những mặt hàng tận dụng tốt ưu đãi thuế quan trong EVFTA bằng việc đáp ứng quy định về quy tắc xuất xứ hàng hóa tương ứng trong EVFTA.
Chỉ riêng trong quý I/2021, tỷ lệ mặt hàng giày dép XK sang thị trường EU có sử dụng C/O (giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá) mẫu EUR.1 theo Hiệp định EVFTA là 98,98%.
Quy tắc xuất xứ hàng da giày được cho là tương đối linh hoạt, cùng với lộ trình cắt giảm thuế quan nhanh và sâu của EU dành cho Việt Nam trong EVFTA là động lực gia tăng XK hàng da giày vào thị trường này từ đầu năm đến nay.
Tuy nhiên, các chuyên gia Bộ Công Thương lưu ý “mặc dù tiêu chí xuất xứ cho mặt hàng da giày trong EVFTA tương đối linh hoạt và cho phép nhập khẩu nguyên liệu ngoài khối để sản xuất hàng hóa, việc đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu do ảnh hưởng của dịch Covid-19 trong thời gian qua cũng là hồi chuông báo động cho ngành sản xuất da giày trong nước khi phụ thuộc lớn vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu”.
Và để nhóm ngành da giày không chỉ tận dụng lợi thế từ EVFTA mà còn là ưu đãi thuế quan từ các FTA thế hệ mới khác (đơn cử như Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương - CPTPP), các doanh nghiệp (DN) trong ngành cần phải tập trung phát triển cân bằng nguồn nguyên liệu sản xuất trong nước để đáp ứng tốt về các quy định về quy tắc xuất xứ trong các FTA.
Đặc biệt là khi nguồn nguyên liệu trong nước đã đảm bảo thì việc tự chứng nhận xuất xứ của DN sẽ hanh thông hơn, XK vào các thị trường có FTA dễ dàng hơn, giúp phục hồi tăng trưởng XK sau những khó khăn do Covid-19 gây ra.
Vẫn lo doanh nghiệp... bỡ ngỡ
Mới đây, khi đề xuất một loạt chính sách, giải pháp để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh chịu tác động từ dịch Covid-19, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) có nhấn mạnh đến việc nên triển khai sớm cơ chế tự chứng nhận xuất xứ như là một trong những giải pháp căn cơ, dài hạn.
VCCI đề xuất Bộ Công Thương nghiên cứu để trình Chính phủ quyết định triển khai cơ chế tự chứng nhận xuất xứ theo các FTA ngay trong giai đoạn 2022-2024. Cụ thể là triển khai cơ chế tự chứng nhận trong CPTPP sớm hơn thời hạn 2024-2029 mà Việt Nam bảo lưu theo cam kết. Ngoài ra, cần triển khai cơ chế tự chứng nhận trong EVFTA và FTA Việt Nam - Vương quốc Anh (UKVFTA) đồng thời với cơ chế tự chứng nhận xuất xứ theo CPTPP.
Theo nhận định của VCCI, việc áp dụng tự chứng nhận xuất xứ cho hàng hóa XK theo các FTA ở Việt Nam là hoàn toàn khả thi. Trong đó, trách nhiệm của DN đối với tự chứng nhận xuất xứ được nhấn mạnh và yêu cầu cao hơn.
Tuy vậy, cũng cần phải thấy những khó khăn hiện tại để DN tự chứng nhận xuất xứ. Chẳng hạn như với CPTPP, theo giới chuyên gia, các DN trong nước sản xuất ra hàng hoá là chủ thể hiểu rõ nhất quy trình sản xuất hàng hoá như thế nào, nhưng nhiều DN đến nay vẫn còn thiếu những kiến thức nhất định về các quy tắc xuất xứ hàng hoá trong hiệp định này, về thủ tục chứng nhận xuất xứ hàng hoá, đặc biệt là thiếu kinh nghiệm về tự chứng nhận xuất xứ hàng hoá.
Trên thực tế, so với DN của nhiều quốc gia khác trên thế giới và trong khu vực, DN Việt Nam vẫn còn rất nhiều bỡ ngỡ về hình thức tự chứng nhận xuất xứ này.
Theo chuyên gia Nguyễn Thuỳ Dương (Đại học Luật Hà Nội), các DN của Việt Nam cũng sẽ gặp khó khăn trong việc xây dựng hệ thống lưu trữ đáp ứng được yêu cầu của Hiệp định CPTPP về lưu trữ toàn bộ các tài liệu liên quan tới việc chứng nhận xuất xứ hàng hoá cho một lô hàng tối thiểu là 5 năm.
Các DN Việt Nam hiện nay chủ yếu có quy mô vừa và nhỏ (chiếm hơn 98% tổng số DN cả nước), do đó việc xây dựng một hệ thống lưu trữ hồ sơ, tài liệu trên giấy cũng như lưu trữ trên hệ thống cơ sở dữ liệu điện tử là một thách thức lớn đối với các DN này
Việc không đáp ứng yêu cầu về cơ sở lưu trữ hồ sơ cũng sẽ dẫn đến kết quả là các DN sản xuất, XK hàng hoá sẽ không thể đáp ứng yêu cầu cung cấp thông tin của quốc gia nhập khẩu khi họ thực hiện xác minh chứng nhận xuất xứ hàng hoá trong trường hợp cần thiết. Điều đó sẽ khiến cho hàng hoá của các DN này khó có thể được hưởng ưu đãi thuế theo quy định tại Hiệp định CPTPP.
Thế Vinh