Đây là khuyến cáo của Ts.Trần Toàn Thắng, Phó trưởng Ban Môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh thuộc Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương. Điển hình như đầu tư thực tế của doanh nghiệp (DN) Nhật Bản không theo kỳ vọng của Chính phủ hai nước.
Hấp thụ chưa cao
Theo lời của Ts.Thắng, Việt Nam chỉ chiếm tỷ trọng khá nhỏ đối với các DN Nhật trong việc rót vốn đầu tư vào ASEAN. Còn như đầu tư từ Hàn Quốc, thực chất sẽ thế nào trong trường hợp không có Samsung. Nhìn nhận một cách thực tế, các nước trên thế giới không đánh giá quá cao môi trường đầu tư của Việt Nam.
Thực tế, thời gian qua, vốn đăng ký mới của các DN Nhật không nhiều mà họ chỉ mở rộng quy mô hoạt động. “Xúc tiến đầu tư nước ngoài rõ ràng có vấn đề, thiếu những nhà đầu tư mới” – ông Thắng nhấn mạnh.
Những nhận định này có phần nào tương thích với kết quả khảo sát của Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO) về tình hình hoạt động của DN Nhật, năm 2016 cho thấy hơn 60% DN Nhật đầu tư có kế hoạch mở rộng hoạt động trong tương lai.
Tuy nhiên, giới đầu tư Nhật cho biết, có thể nhận thấy những rủi ro mà DN Nhật tại Việt Nam phải đối mặt như chi phí nhân công tăng cao, hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, vận dụng pháp luật không rõ ràng, thủ tục hành chính phức tạp, cơ chế thuế, thủ tục thuế, tỷ lệ cung ứng nội địa thấp…
Trao đổi với giới DN tại Tp.HCM hôm 27/2 bàn về chủ đề “Từ kinh tế Mỹ đến Đông Nam Á, tiến – lùi cho hội nhập Việt Nam”, các chuyên gia lưu ý, con số cam kết rót vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam có thể nâng đến hàng chục tỷ USD.
Nhưng đó vẫn chỉ là những con số ảo, còn số vốn FDI thực tế chỉ từ 12 đến 15 tỷ USD. Trong 5 năm trở lại đây, con số đầu tư thực tế của khối ngoại đã cho thấy rõ điều này.
![]() |
Năng lực hấp thụ vốn FDI của nền kinh tế Việt Nam thực tế không cao
Điều này thực sự bộc lộ rõ ràng năng lực hấp thụ vốn FDI của nền kinh tế Việt Nam không cao, không thể ảo tưởng khi chỉ dựa vào con số cam kết và những “thổi phồng”.
Giữa kỳ vọng và thực tế là hai câu chuyện hoàn toàn khác nhau. Theo giới chuyên gia, trong chiến lược thu hút vốn FDI hiện nay của Nhà nước đặt ra hai câu chuyện là công nghệ cao và thân thiện môi trường. Nhưng liệu chúng ta có làm được không khi chưa giải quyết những vấn đề mấu chốt trong đầu tư?
Cần thực chất
Chẳng hạn như câu chuyện phụ thuộc thương mại với Trung Quốc. Theo Ts.Trần Toàn Thắng, phụ thuộc nhập khẩu vào Trung Quốc gần như cao nhất so với các đối tác Mỹ, EU, Nhật Bản…
Việc phụ thuộc cơ cấu đầu tư từ Trung Quốc đã có những thay đổi đáng kể. Trung Quốc hiện không phải là nhà đầu tư lớn, nhưng nhóm liên quan đến Trung Quốc chiếm tỷ trọng lớn trong đầu tư ở Việt Nam.
Theo thống kê, trong hai tháng đầu năm 2017, có 61 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam. Singapore đứng vị trí đầu bảng với tổng vốn đầu tư là 881,6 triệu USD, chiếm 25,8% tổng vốn đầu tư; Trung Quốc đứng thứ hai với tổng vốn đầu tư đăng ký là 721,7 triệu USD, chiếm 21,1% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam; Hàn Quốc đứng vị trí thứ ba với tổng vốn đầu tư đăng ký là 637,1 triệu USD, chiếm 18,7% tổng vốn đầu tư.
Tính đến ngày 20/02/2017, ước tính các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã giải ngân được 1,55 tỷ USD, tăng 3,3% so với cùng kỳ năm 2016. Xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) trong hai tháng đầu năm 2017 đạt 19,709 tỷ USD, tăng 16,7% so với cùng kỳ năm 2016 và chiếm 72% kim ngạch xuất khẩu. Xuất khẩu không kể dầu thô trong hai tháng đầu năm đạt 19,277 tỷ USD, tăng 16,2% so với cùng kỳ 2016 và chiếm 70,5% kim ngạch xuất khẩu.
Nhập khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài tính trong hai tháng đầu năm 2017 đạt 16,275 tỷ USD, tăng 18% so với cùng kỳ năm 2016 và chiếm 59,4% kim ngạch nhập khẩu. Tính chung trong hai tháng đầu năm 2017, khu vực đầu tư nước ngoài xuất siêu 3,43 tỷ USD kể cả dầu thô và xuất siêu 3 tỷ USD không kể dầu thô.
Để hấp thụ thực chất nguồn vốn FDI, giới chuyên gia khuyến nghị, cần cải thiện môi trường đầu tư, góp phần thu hút vốn đầu tư chất lượng cao. Bởi lẽ, nhiều tập đoàn đã đón đầu Hiệp định TPP và Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) thông qua các dự án đầu tư vào Việt Nam.
Vì vậy, Việt Nam có cơ sở để tận dụng cơ hội trở thành điểm trung chuyển, kết nối hoạt động thương mại của các đối tác lớn tại ASEAN. Tác động này càng được cộng hưởng khi Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) đã hình thành hơn một năm nay.
Vấn đề là cần những tác động để đổi mới thể chế trong nước và quan trọng hơn, cải thiện môi trường đầu tư. Tuy nhiên, sửa luật lệ trực tiếp không nhiều, gián tiếp mới quan trọng. Điều đó phụ thuộc vào quyết tâm của Chính phủ.
Thế Vinh