Ông Trần Tuấn Anh, Bộ trưởng Bộ Công Thương |
Việt Nam hiện là một trong những nền kinh tế mở nhất thế giới, Bộ trưởng đánh giá như thế nào về năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp (DN) trong năm 2018?
Năm 2018, kim ngạch xuất khẩu (XK) hàng hóa ước đạt 244,72 tỷ USD, tăng 13,8% so với năm 2017. Có thể đánh giá 2018 là năm thành công với chỉ tiêu XK và cán cân thương mại khi tăng trưởng XK đạt tốt với 13,8%, cao hơn chỉ tiêu đặt ra từ đầu năm. Quy mô XK tăng mạnh, cả nước có khoảng 26 mặt hàng XK đạt trên 1 tỷ USD, 8 mặt hàng đạt trên 5 tỷ USD và 5 mặt hàng trên 10 tỷ USD.
Khối DN 100% vốn trong nước tiếp tục có tốc độ tăng trưởng XK tốt, đạt 69,2 tỷ USD, tăng 15,9%. Nếu các năm trước, tăng trưởng XK của khối này thường xuyên đạt thấp hơn khối DN có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) thì năm 2018 đã đảo chiều, đạt cao hơn.
Cùng với đó, công tác phát triển thị trường đạt kết quả tốt. Ngoại trừ Chile, kim ngạch XK sang các thị trường có hiệp định thương mại (FTA) đều tăng như ASEAN tăng 15%, Trung Quốc: 30%, Australia: tăng 24%…
Nói tới FTA không thể không nhắc tới hai hiệp định thế hệ mới là Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA). Với hai FTA này, khả năng tận dụng cơ hội của DN Việt ra sao, nhất là đối với CPTPP đã có hiệu lực, thưa Bộ trưởng?
Như tôi đã từng trao đổi tại nhiều diễn đàn, hội nhập kinh tế quốc tế bao giờ cũng mang lại các tác động cả hai chiều. Điều này không chỉ diễn ra đối với riêng Việt Nam mà với tất cả các nước tham gia sân chơi này.
Các FTA, đặc biệt là các FTA thế hệ mới như CPTPP hay EVFTA, bên cạnh các lợi ích lớn có thể nhận diện như tăng trưởng XK, tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu, thu hút nhiều hơn đầu tư nước ngoài, thúc đẩy cải cách thể chế…, cũng sẽ đặt ra các thách thức nhất định đối với nền kinh tế Việt Nam.
Cùng với đó, Việt Nam sẽ đối mặt với những thách thức như sức ép cạnh tranh, giải quyết bài toán về thu ngân sách nhà nước, hay sức ép đối với công tác hoàn thiện khung khổ pháp luật, thể chế và một số thách thức khác.
Nhận diện được các khó khăn khi FTA đi vào thực thi sẽ giúp các DN phần nào chuẩn bị và chủ động hơn cho sân chơi mới này. Trước hết, các DN cần chủ động tìm hiểu thông tin về các FTA để nắm vững cam kết mở cửa thị trường của Việt Nam cho hàng hóa của các đối tác CPTPP, có phương án củng cố và nâng cao sức cạnh tranh hàng hóa đủ sức cạnh tranh trên chính thị trường nội địa và từ đó xâm nhập sang thị trường các nước.
DN cũng cần thay đổi tư duy kinh doanh trong bối cảnh mới, lấy sức ép về cạnh tranh làm động lực để đổi mới và phát triển. CPTPP và EVFTA chắc chắn sẽ mang lại cơ hội cho DN nào chủ động đáp ứng với những thay đổi về môi trường kinh doanh do quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mang lại thông qua việc xây dựng và điều chỉnh kế hoạch kinh doanh cho giai đoạn trung và dài hạn nhằm thúc đẩy dòng chảy của hàng hóa vào các thị trường đối tác tiềm năng.
Các DN cũng cần chủ động tìm hướng hợp tác với các thị trường trong khu vực CPTPP và EVFTA để thu hút mạnh mẽ đầu tư trực tiếp vào Việt Nam nhằm tận dụng hiệu quả nguồn vốn và việc chuyển giao công nghệ từ các tập đoàn lớn. Đây cũng chính là cơ hội tốt để các DN tham gia sâu hơn nữa vào chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu.
Bộ Công Thương đã có những giải pháp cụ thể nào để giúp DN “vượt vũ môn”?
Trong thời gian tới, Bộ Công Thương sẽ tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ, đồng hành để giúp DN tận dụng thật tốt cơ hội mà các FTA mang lại.
Về cơ bản các hoạt động này sẽ tập trung vào công tác tuyên truyền, phổ biến để cung cấp thông tin về các cam kết trong FTA cho cộng đồng DN trên cả nước để hiểu rõ và hiểu đúng các quy định, cam kết trong các lĩnh vực cụ thể, hỗ trợ cho công tác hoạch định kế hoạch sản xuất, kinh doanh của DN; xây dựng và thực thi các biện pháp hỗ trợ cần thiết để DN trong nước có thể nâng cao được năng lực cạnh tranh, từ đó tận dụng được tối đa các cơ hội do quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đem lại.
Việt Nam đang đẩy mạnh phát triển nông nghiệp công nghệ cao, bởi vậy bài toán thị trường là hết sức quan trọng. Ngành công thương sẽ làm gì để đẩy mạnh XK, giải bài toán “được mùa mất giá”, thưa Bộ trưởng?
Trong những năm gần đây, hàng nông sản XK đã có đóng góp quan trọng trong tổng kim ngạch XK, góp phần ổn định tiêu thụ hàng hóa và nâng cao thu nhập, đời sống của người nông dân.
Mặc dù vậy, XK nhóm hàng nông sản đang tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn phát sinh, đặc biệt là các rào cản thương mại và kỹ thuật, các vụ kiện chống phá giá, chống trợ cấp diễn biến ngày càng phức tạp. Đồng thời, việc chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng tăng các sản phẩm chế biến sâu, chất lượng cao phục vụ XK vẫn chưa phát huy hiệu quả rõ rệt.
Hơn nữa, năng lực sản xuất làm được nhưng phải khai thác được thị trường từ các FTA mang lại như CPTPP, EVFTA… Rõ ràng, chúng ta phải tổ chức lại sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, mở cửa thị trường, khai thác cơ chế ưu đãi thuế quan và khắc phục các hàng rào kỹ thuật của các nước đưa ra.
Trong đó, chất lượng sản phẩm sẽ là điều kiện tiên quyết để giữ vững thị trường không những ở quốc tế mà ngay trên sân nhà.
Việc tìm giải pháp tiêu thụ cho nhóm hàng nông sản trong thời gian tới đòi hỏi chiến lược dài hơi từ các bộ, ngành hữu quan, đặc biệt là Bộ NN&PTNT, trong đó cần chú trọng vào sản xuất các mặt hàng có tính thương mại hóa cao, phù hợp với tín hiệu của thị trường, có khả năng cạnh tranh với hàng nhập khẩu và hàng XK các nước khác có cùng lợi thế cạnh tranh như Việt Nam.
Với vai trò là cơ quan chủ quản trong việc phát triển thị trường XK hàng hóa, Bộ Công Thương luôn xác định công tác tiêu thụ các sản phẩm nông sản là lĩnh vực trọng tâm cần phải chú trọng để đảm bảo việc làm và thu nhập cho người dân, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô.
Cụ thể, Bộ Công Thương đã và đang tập trung triển khai thực hiện nhiều biện pháp nhằm phát triển thị trường tiêu thụ nông sản như: Tiếp tục tập trung đàm phán mở rộng thị trường; tăng cường công tác cung cấp thông tin, cập nhật, theo dõi diễn biến tình hình sản xuất, sản lượng, tồn kho, chính sách và nhu cầu XNK nhóm hàng nông sản tại các thị trường; chỉ đạo hệ thống Thương vụ Việt Nam tại nước ngoài tăng cường tìm kiếm, giới thiệu khách hàng…
Trong bối cảnh bất ổn thương mại toàn cầu, những thách thức đặt ra đối với XK là không hề nhỏ, ngành công thương đã có kịch bản chuẩn bị cho điều này?
Bộ Công Thương sẽ tiếp tục theo dõi sát biến động của tình hình thế giới, đặc biệt là diễn biến cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung để chủ động trong công tác điều hành, có biện pháp thúc đẩy XK những mặt hàng có khả năng tận dụng cơ hội để XK và tăng cường quản lý chặt chẽ trước nguy cơ gian lận thương mại và gian lận xuất xứ hàng hóa.
Bên cạnh đó, Bộ cũng đang chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, hiệp hội ngành hàng triển khai thực hiện Chương trình xây dựng thương hiệu ngành thực phẩm Việt Nam nhằm hỗ trợ cho các địa phương, hiệp hội ngành hàng và DN xây dựng và bảo vệ thương hiệu, chỉ dẫn địa lý đối với các mặt hàng XK của Việt Nam, trong đó có nông sản, với mục tiêu xây dựng, quảng bá hiệu quả hình ảnh chung của ngành thực phẩm Việt Nam, qua đó góp phần thúc đẩy XK.
Thời gian tới, Chương trình sẽ thực hiện các chiến dịch truyền thông, quảng bá hình ảnh ngành hàng thực phẩm Việt Nam và phân ngành thực phẩm thông qua kênh truyền thông và sự kiện xúc tiến thương mại trong và ngoài nước. Mục tiêu là đưa Việt Nam trở thành một trung tâm kinh doanh khu vực của ngành thực phẩm quốc tế, tạo môi trường thuận lợi cho các dự án sản xuất, kinh doanh thực phẩm của DN trong và ngoài nước.
Thy Lê thực hiện