Việt Nam có điểm số thấp về quản lý giống cây trồng, máy móc nông nghiệp và vận tải. Trong đó, môi trường cho kinh doanh giống cây trồng của Việt Nam được đánh giá ở mức 62,5/100 điểm, thấp hơn cả Campuchia (68,8), Bangladesh (70,8) và Philipines (83,0).
Tại Việt Nam, cơ chế bảo vệ quyền lợi, hỗ trợ phát triển làm khá tốt nhưng việc đăng ký kinh doanh giống cây trồng có nhiều điều kiện nghiêm ngặt, thời gian cấp giấy chứng nhận cho giống mới lâu (ước tính mất 901 ngày so với Philippines (571 ngày) và Myanmar (306 ngày).
Môi trường “dưới mức trung bình”
Chi phí để đăng kí giống mới còn cao (bằng 426% GNI bình quân đầu người) so với thế giới cũng như với các nước trong nhóm thu nhập trung bình thấp (Myanmar 35,1%, Campuchia 18,5% GNI bình quân đầu người, ở Bangladesh chi phí này gần như bằng 0).
Thủ tục nhập khẩu giống cây trồng còn khó khăn, yêu cầu phức tạp, cấp phép chậm chạp. Chẳng hạn, thủ tục NK các giống hoa mới rất phức tạp, yêu cầu rất khắt khe, như các nước XK phải cung cấp bảng phân tích nguy cơ dịch hại, nhà XK phải cung cấp đầy đủ các số liệu kinh doanh, sản lượng sản xuất, các nước XK đến… liên quan đến bí mật kinh doanh nên đối tác nước ngoài không cung cấp…
Việt Nam cũng được xếp hạng rất thấp (thứ 37/40 quốc gia được đánh giá) về môi trường cho kinh doanh máy móc nông nghiệp (chỉ đạt 24,4/100), chỉ hơn Lào, Nepal và Myanmar.
Môi trường hoạt động kinh doanh vận tải phục vụ nông nghiệp của Việt Nam ở mức thấp so với khu vực và quốc tế, chỉ đạt 54,8/100 điểm, xếp thứ 35/40 nước được đánh giá. Mặc dù việc cấp phép cho hoạt động vận tải được thực hiện khá tốt (81/100 điểm, xếp thứ 8), Việt Nam vẫn còn nhiều quy định thắt chặt việc vận chuyển xuyên biên giới (28,6 điểm, xếp thứ 38) trong khi Lào và Philipine đạt điểm số ở mục này khá cao (với 71,4 điểm). Ngoài ra, Việt Nam còn thiếu hệ thống xử lý điện tử cho cấp phép và gia hạn giấy phép vận tải.
Theo Ngân hàng Thế giới, môi trường kinh doanh tài chính phục vụ nông nghiệp của Việt Nam hiện ở mức trung bình, chỉ đạt 45,3/100 điểm, thấp hơn nhiều Philippine (72,6), Bangladesh (60,1). Việt Nam đã đưa ra rất nhiều chính sách hỗ trợ tài chính cho nông nghiệp, nhưng lại đứng thứ 19 trên 30 nước còn thiếu khung pháp lý cho các hoạt động đại lý ngân hàng và biên nhận lưu kho.
![]() |
Phải mất 901 ngày mới được cấp giấy chứng nhận giống mới
Tạo thông thoáng cho DN?
Bên cạnh đó, thủ tục và quy định cho phép DN được hưởng các ưu đãi về thuế, phí cũng còn nhiều bất cập. Ví dụ như các DN XK cà phê được miễn thuế VAT XK nhưng thủ tục kiểm tra, quyết toán hoàn thuế rất chậm. Việc hoàn trả thuế thu nhập DN (nếu nộp thừa) cũng không được hoàn trả ngay bằng tiền mặt mà chỉ được khấu trừ dần…
Theo ông Nguyễn Đỗ Anh Tuấn, Viện trưởng IPSARD, kết quả điều tra của IPSARD (2014) đối với 100 cán bộ quản lý thuộc các sở, Hiệp hội DN và 200 DN nông nghiệp tại 10 tỉnh thành cho thấy có tới 66,7% số ý kiến cho rằng chính sách hiện nay chưa phù hợp với nhu cầu của DN.
Các chính sách hỗ trợ DN phát triển thị trường trong những năm qua chủ yếu là hỗ trợ DN tham gia hội chợ triển lãm, đi nước ngoài tìm kiếm thị trường tiêu thụ, xây dựng thương hiệu sản phẩm. Tuy nhiên, số lượng DN được thụ hưởng chính sách này còn rất ít. Trong 200 DN điều tra, chỉ có 6% được hỗ trợ tham gia hội chợ triển lãm; 1% được hỗ trợ đi nước ngoài tìm kiếm thị trường và 1,5 % được hỗ trợ xây dựng thương hiệu sản phẩm.
Theo các chuyên gia, để tháo gỡ khó khăn cho DN nông nghiệp, về thủ tục hành chính, cần tạo môi trường thông thoáng hơn cho các DN: xây dựng quy trình đánh giá cấp phép cho giống mới, cấp phép NK máy móc nông nghiệp một cách minh bạch hiệu quả; rà soát điều chỉnh các quy định nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho vận chuyển xuyên biên giới, đặc biệt với các nước trong khối ASEAN; xây dựng hệ thống xử lý điện tử cho cấp phép và gia hạn giấy phép vận tải.
Về chính sách tín dụng trong nông nghiệp, cần nghiên cứu làm rõ vai trò trung tâm trong chuỗi giá trị của DN để áp dụng các phương thức cho vay và cung ứng sản phẩm dịch vụ tài chính phù hợp. Bên cạnh đó, cần hoàn thiện khung pháp lý để phát triển cung ứng đồng bộ các sản phẩm dịch vụ khác hoặc liên kết định chế tài chính khác để phát triển các sản phẩm như: quản lý tiền mặt, quản lý tài sản, bảo hiểm thanh toán, bảo hiểm nhân thọ, phái sinh hàng hóa, đại lý ngân hàng, biên nhận lưu kho…
Cần rà soát, hoàn thiện hệ thống chính sách khuyến khích đầu tư vào nông nghiệp trên cả nước một cách đồng bộ, thống nhất; cam kết không thay đổi chính sách trong khoảng thời gian đủ cho vòng đời đầu tư nông nghiệp (từ 10-20 năm); thúc đẩy liên kết công – tư trong đầu tư vào nông nghiệp thông qua xây dựng các diễn đàn về chính sách để tháo gỡ khó khăn cho DN; đưa DN cùng tham gia vào quá trình hoạch định các chính sách liên quan, thiết kế những dự án đầu tư vào nông nghiệp hiệu quả cho cả DN và nông dân.
Thu Hường