Tại hội thảo “Mối quan hệ giữa kiều hối và hoạt động đầu tư tại Việt Nam” ngày 29/9, Ts. Lưu Bích Hồ, nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển (Bộ KH&ĐT), cho rằng: “Chúng ta may mắn có lực lượng kiều bào rất đông đảo, nguồn kiều hối đổ về nhiều hơn cả Trung Quốc, tuy nhiên hoạt động đầu tư nguồn tiền này lại không hiệu quả như mong đợi”.
Cụ thể, “nếu so với Trung Quốc, tất cả người dân ở nước này khi nhận được kiều hối đều đầu tư bằng mọi cách hoặc gửi ngân hàng mà không giữ trong nhà. Còn ở Việt Nam, kiều hối tham gia vào quá trình phát triển kinh tế rất ít, thua cả FDI. Kỳ lạ là từ chính sách đến hành xử giữa người Việt với nhau lại không bằng với các nhà đầu tư nước ngoài. Vậy nên giải pháp của mọi giải pháp là phải gỡ bỏ hạn chế này”, Ts. Hồ khẳng định.
Chưa thực sự hiệu quả
PGs.Ts. Trần Thị Vân Hoa, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, dẫn số liệu thống kê cho biết, đã có 52/63 tỉnh có đầu tư của kiều hối với 8,2 tỷ USD.
Trước đó, thống kê từ Ngân hàng Nhà nước (NHNN) chi nhánh Tp.HCM cho biết, trong 6 tháng đầu năm 2016, có khoảng 2,1 tỷ USD (trên 40 nghìn tỷ VNĐ) kiều hối được chuyển về địa bàn thành phố, tăng khoảng 3% so với cùng kỳ năm 2015.
Còn Báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB) cho biết, lượng kiều hối gửi về Việt Nam trong năm 2015 đạt 12,25 tỷ USD, tăng khoảng 0,25 tỷ USD so với năm 2014. Xét trên quy mô toàn cầu, Việt Nam đứng thứ 11 thế giới về lượng kiều hối trong năm nay. Còn xét ở khu vực Đông Á – Thái Bình Dương, Việt Nam đứng thứ 3 sau Trung Quốc và Philippines.
Đáng chú ý, lượng kiều hối chuyển về tăng mạnh khoảng 1 tỷ USD mỗi năm. Cụ thể, kiều hối về Việt Nam năm 2012 đạt 10 tỷ USD, năm 2013 là 11 tỷ USD và năm 2014 là 12 tỷ USD. Theo đó, các chuyên gia dự báo, lượng kiều hối sẽ tiếp tục tăng trong năm 2016.
Tuy nhiên, nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (WB) cho biết, hiện hơn 50% lượng kiều hối vào Việt Nam được sử dụng vào mục đích tiêu dùng, một phần nữa để trả nợ, vốn kiều hối đem đi đầu tư thực chất không nhiều.
Cùng với đó, PGs.Ts Phạm Văn Hùng, Trưởng Khoa Đầu tư, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, cũng cho biết hơn 80% lượng kiều hối về nước là từ Việt kiều, chỉ khoảng 7% lượng kiều hối là đến từ lao động xuất khẩu.
Theo ông Hùng, kiều hối từ Việt kiều gửi về nước phần nhiều là do yếu tố tình cảm, đặc biệt là đối với những Việt kiều thế hệ đầu tiên. Còn lượng kiều hối gửi về từ lao động xuất khẩu vốn mang tính chất kinh tế cao, lại chỉ chiếm có 7%. Đây là nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng sử dụng vốn kiều hối thiếu hiệu quả, đồng thời là dấu hiệu cho thấy phần nào tính yếu kém trong hoạt động thu hút kiều hối tại Việt Nam, đặc biệt khi Việt Nam đang trong thời kỳ “cơ cấu dân số vàng”.
Theo tính toán của các chuyên gia trong giai đoạn 1991 – 2014, lượng kiều hối lũy kế vào Việt Nam đạt khoảng 92 tỷ USD, cộng thêm với khoảng 10 tỷ USD vốn Việt kiều đầu tư về nước thông qua FDI thì tổng lượng kiều hối lũy kế vào Việt Nam trong giai đoạn này khoảng 102 tỷ USD, gần tương đương so với tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thuần cùng kỳ vào Việt Nam rơi vào khoảng 100 tỷ USD.
Đồng thời, thống kê cho thấy, từ năm 1991–2014, Việt kiều đầu tư 3.600 dự án với vốn đăng ký là 8,6 tỷ USD. Nhiều chuyên gia cho rằng con số này nhỏ hơn thực tế do một số dự án FDI do Việt kiều chung vốn với nhà đầu tư nước ngoài hoặc chung với doanh nghiệp trong nước.
Theo Gs. Nguyễn Mại, Chủ tịch Hiệp hội Đầu tư nước ngoài, một số Việt kiều cho rằng Nhà nước đưa ra rào cản với họ khi đòi hỏi phải có vốn đầu tư trên 1 triệu USD, vì vậy để “lách luật”, họ đầu tư bằng cách ủy quyền cho người thân.
Điều này cho thấy, mặc dù tương đương về lượng vốn nhưng rõ ràng, FDI đang tạo ra hiệu ứng và thành quả tích cực hơn nhiều so với kiều hối.
Chính sách “bất công” với kiều hối
Một trong những nguyên nhân được ông Nguyễn Văn Toàn, Phó Chủ tịch Hiệp hội đầu tư nước ngoài, lí giải rằng có thực tế là chính sách hầu như bất công với kiều hối. Trong khi lượng vốn giải ngân FDI so với kiều hối vào Việt Nam là tương đương nhưng khuôn khổ pháp lý cho nguồn lực quan trọng này hiện chỉ có pháp lệnh, quyết định Thủ tướng Chính phủ… Vậy nên rất cần chính sách khơi thông để dòng kiều hối được hiệu quả.
Ông Toàn khẳng định chính sách phải tổng thể, thậm chí có thể ban hành luật. Và nên hướng kiều hối đầu tư công nghệ cao, công nghệ nguồn, công nghiệp hỗ trợ. “Bản thân những Việt kiều khi đưa kiều hối về Việt Nam là những người mang dòng máu Việt, từng sống ở nước ngoài nên họ hiểu rõ về công nghệ, nguồn mua… Tại sao ta không khơi thông, có chính sách để họ đầu tư, mang công nghệ cao về. Sự lan tỏa với DN trong nước sẽ tốt hơn DN FDI”, ông Toàn nói.
Gs. Mại cũng cho rằng cần tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân, tổ chức Việt Kiều hoạt động đầu tư, kinh doanh ở Việt Nam, lập kênh thông tin đối với họ, xử lý các tranh chấp nhanh chóng.
Cụ thể, cần hoàn thiện chính sách về mua nhà, kinh doanh bất động sản với Việt kiều, hoàn thiện chính sách kiều hối. Và khuyến khích giao lưu giữa Việt kiều với cơ quan tổ chức, hội đoàn trong nước, đồng thời khuyến khích đoàn thể trong nước mở rộng quan hệ hợp tác với Việt kiều.
PGs.Ts Phạm Văn Hùng khẳng định: “Để gia tăng đầu tư từ kiều hối cần cải thiện môi trường đầu tư, hỗ trợ khởi nghiệp từ kiều hối, có sự hợp tác chặt chẽ giữa Việt kiều với các doanh nghiệp trong nước, lập quỹ hỗ trợ đầu tư từ nguồn kiều hối, và có chính sách về lao động chất lượng cao trong hội nhập TPP”.
Cũng có chuyên gia cho rằng chúng ta còn rất nhiều tiềm năng để thu hút kiều hối trong thời gian tới nhưng cần có giải pháp tổng thể, thể chế cần toàn diện, dài hơi, nhất quán, ổn định. Tiếp đến là yếu tố văn hóa. Khi chúng ta ở nước ngoài có cảm nhận yêu nước nhiều hơn nên chăng có những biện pháp về văn hóa như sản xuất phim về Việt Nam với bức tranh đổi mới.
Ts. Lưu Bích Hồ, Nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển, Bộ KH&ĐT ------------------------------- Hiệu quả hay không tùy thuộc vào hai điểm. Thứ nhất ta có thực sự coi trọng và giải tỏa vướng mắc từ tư duy, chính sách đến hành động không. Thứ hai, thể chế kinh tế thị trường phải cởi trói cho khu vực tư nhân cả trong và ngoài nước. Phải tiến tới cải cách kinh tế thị trường triệt để và đầy đủ hơn. Người dân, DN trong nước còn mất niềm tin về kinh tế thị trường, thể chế thì người ở nước ngoài làm sao họ có niềm tin được. Ông Nguyễn Mại, Chủ tịch Hiệp hội Các nhà đầu tư nước ngoài Chúng ta cần có quan điểm đầy đủ hơn, đổi mới hơn mà tôi dùng chữ gọi là “mở cửa hai đầu”, tức là Nhà nước nên “mở toang cửa” cho người Việt tại nước ngoài về nước tự do đầu tư, du lịch… cũng như khuyến khích người Việt trong nước định cư và làm việc tại nước ngoài. Ông Lê Thanh Bình, Trưởng Đại diện Hội người Việt Nam tại Ba Lan |
Lê Thúy