Theo Cục Bảo vệ thực vật (Bộ NN&PTNT), cả nước có 265 nhà máy sản xuất phân bón hữu cơ, chiếm 31,6% trong 838 nhà máy sản xuất phân bón và tăng gần 1,47 lần so với số lượng 180 nhà máy năm 2017. Sản xuất phân bón hữu cơ tại nông hộ cũng phát triển nhanh chóng trong thời gian gần đây. Tuy nhiên, số lượng và sản phẩm phân bón hữu cơ vẫn còn khiêm tốn so với phân bón vô cơ (11,6 % so với 86,9%).
Khó khăn trong tiêu thụ
Theo ông Hoàng Trung, Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật (Bộ NN&PTNT), sở dĩ nhiều doanh nghiệp (DN) chưa quan tâm tới sản xuất phân bón hữu cơ là vì rủi ro về nguồn nguyên liệu, thị trường và lợi nhuận không cao. Trong vòng 30 năm trở lại đây, người dân chủ yếu sử dụng phân bón vô cơ do áp lực thâm canh tăng năng suất và những tiện dụng như gọn nhẹ, tác động nhanh đến sinh trưởng của cây trồng.
Hiện chưa có hành lang pháp lý cho việc công nhận phòng thử nghiệm kiểm chứng, thiếu các kết quả nghiên cứu về hiệu suất sử dụng phân bón, thất thoát dinh dưỡng... đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả quản lý phân bón hữu cơ.
Tại hội nghị thúc đẩy sản xuất, sử dụng và nâng cao chất lượng phân bón hữu cơ ngày 28/8, ông Nguyễn Hồng Lam, Chủ tịch Tập đoàn Quế Lâm, cho hay vấn đề tiêu thụ phân bón rất khó khăn do nông dân đã quen với sản phẩm phân bón vô cơ.
Đại diện CTCP Tổng công ty Sông Gianh cũng chia sẻ do tỷ lệ nông dân sử dụng phân bón hữu cơ còn thấp, khó khăn trong vấn đề tiêu thụ sản phẩm, nên năng lực sản xuất của DN là 200.000 tấn nhưng sản lượng tiêu thụ chỉ đạt 100.000 tấn/năm.
Bên cạnh đó, các DN phân bón hữu cơ đang phải cạnh tranh không lành mạnh với các DN làm ăn kiểu chụp giật, chất lượng sản phẩm thấp.
Trong bối cảnh này, đại diện CTCP Tổng công ty Sông Gianh kiến nghị Nhà nước cần có chính sách về tín dụng, đất đai, thuế để khuyến khích sản xuất, các chương trình khuyến nông để giới thiệu, đẩy mạnh sử dụng sản phẩm phân bón hữu cơ.
Ông Nguyễn Hồng Phong, Tổng giám đốc CTCP Công nông nghiệp Tiến Nông, nêu ra hàng loạt khó khăn, như: thói quen, tập quán canh tác của nông dân ở nhiều vùng trên cả nước còn chú trọng vào năng suất nên xem nhẹ các giải pháp canh tác đồng bộ theo hướng hữu cơ, khiến DN phải tăng thời gian và chi phí để tiếp cận.
Mặt khác, vùng nguyên liệu hữu cơ nằm rải rác, xa nhà máy sản xuất khiến chi phí vận chuyển tăng, ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm. Đặc thù sản xuất phân bón hữu cơ đòi hòi mặt bằng lớn dẫn đến nhu cầu sử dụng đất của DN tăng, trong khi tiếp cận đất khó khăn. Đặc biệt, các sản phẩm phân bón hữu cơ nhập khẩu về ngày càng nhiều, cạnh tranh gay gắt với sản phẩm do DN Việt Nam sản xuất.
Ông Phong đề nghị Nhà nước tăng cường công tác quản lý, kiểm tra nhằm tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng trên thị trường phân bón, đẩy lùi nạn phân bón giả, phân bón kém chất lượng. Đồng thời, tạo điều kiện cho công tác đăng ký lưu hành các sản phẩm phân bón hữu cơ đạt tiêu chuẩn của DN. Bên cạnh đó có chính sách cụ thể hạn chế phân bón hữu cơ nhập khẩu để tạo điều kiện phát triển phân bón hữu cơ trong nước, tránh hiện tượng một số DN lấy danh nghĩa nhập khẩu phân bón hữu cơ nhưng thực chất là rác hữu cơ qua xử lý của các nước về Việt Nam.
![]() |
Vấn đề khó khăn nhất của các DN sản xuất phân bón hữu cơ là tiêu thụ sản phẩm |
Bắt tay thực hiện “cuộc cách mạng”
Theo Chủ tịch Hiệp hội Phân bón Việt Nam Nguyễn Hạc Thúy, trong cơ chế thị trường, càng hội nhập sâu với các nước trong khu vực và thế giới càng thấy đa số sản phẩm nông sản Việt Nam kém cạnh tranh về chất lượng mẫu mã, thương hiệu cũng bị mờ nhạt. Ví dụ như Việt Nam đã xuất khẩu gạo trên 20 năm nhưng chưa đạt thương hiệu quốc tế. Trong khi đó, dù đi sau Việt Nam, nhưng tại Hội chợ thương mại quốc tế các năm 2014, năm 2015, năm 2016, gạo thơm Phka Ramdoul (gạo lài Campuchia) đã 3 lần trình làng, được xếp hạng gạo ngon nhất thế giới vì họ thực hiện nghiêm ngặt quy trình sử dụng phân bón hữu cơ, không có tác động của hóa chất cho sinh trưởng cây trồng.
Số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy ngành nông nghiệp hàng năm thải ra khoảng 40 triệu tấn rơm rạ, bã cây ngô, mía; hơn 25 triệu tấn các loại phân trâu, bò, lợn, gia cầm... Riêng Đồng bằng sông Cửu Long đã có hơn 23 triệu tấn rơm rạ, hơn 4,6 triệu tấn trấu và hơn 2,3 triệu tấn cám...
Với số lượng phế thải trên, ông Thúy đánh giá Việt Nam đủ sức mỗi năm sản xuất được 12-15 triệu tấn phân hữu cơ theo mô hình nhà máy mini hộ nông dân tại các địa phương trên cả nước. Nhu cầu giai đoạn 1 ước đến năm 2025 là 10 triệu tấn phân bón hữu cơ.
Tuy vậy, ông Thúy cho rằng sản xuất phân hữu cơ là làm một "cuộc cách mạng", nếu chỉ tổ chức hội nghị, hội thảo sẽ không thể thành cao trào đột phá. Phải làm đồng bộ, tuyên truyền, tổ chức xây dựng mô hình điểm, nhân rộng xã, huyện, tỉnh. Một cuộc cách mạng đổi mới còn phải là cả hệ thống chính trị, hệ thống DN, các nhà khoa học, nông dân đồng bộ thực hiện được ý tưởng chỉ đạo của Đảng và Chính phủ và ý tưởng của Bộ trưởng Bộ NN&PTNT đến năm 2020, Việt Nam sản xuất được 3 triệu tấn phân hữu cơ...
Ở góc độ quản lý, ông Hoàng Trung cũng nhấn mạnh cần xác định cơ sở sản xuất, kinh doanh phân bón hữu cơ là vật tư đầu vào phục vụ cho sản xuất hữu cơ được ưu tiên hưởng các chính sách khuyến khích đầu tư đã được ban hành: chính sách hỗ trợ DN vừa và nhỏ, chính sách khuyến khích DN đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; chính sách hỗ trợ HTX nông nghiệp; chính sách liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ sản phẩm. Qua đó mới có thể khuyến khích, vận động DN thúc đẩy sản xuất và tiêu thụ phân bón hữu cơ, đặc biệt là các DN sản xuất phân bón vô cơ chuyển dần sang sản xuất phân bón hữu cơ nhằm cân đối tỷ lệ sử dụng phân bón vô cơ và phân bón hữu cơ một cách hợp lý.
Theo Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Nguyễn Xuân Cường, mỗi năm Việt Nam sử dụng 13 triệu tấn phân bón nhưng chủ yếu là vô cơ. Sản xuất nông nghiệp có năng suất rất cao như lúa 6,2 tấn/ha, cà phê 2,5-3,5 tấn/ha nhưng vì lạm dụng quá yếu tố vô cơ nên các sản phẩm nông sản không có giá trị kinh tế cao và để lại hệ luỵ cả hệ sinh thái tài nguyên, môi trường bị ảnh hưởng. Vì vậy, chủ trương là phải tích cực chuyển nhanh, đồng bộ sang nền nông nghiệp sạch, hữu cơ để khôi phục hệ sinh thái đất, tạo ra sản phẩm chất lượng cao nhất.
Bộ trưởng cho biết, năm 2019, Việt Nam dự kiến xuất khẩu 100.000 tấn phân bón, trong đó phân hữu cơ là một trong những tiềm năng cần hướng tới. Đồng thời, Việt Nam hiện có 15 triệu héc ta canh tác hàng năm với nhu cầu bình quân khoảng 80 triệu tấn phân hữu cơ, nên dư địa của lĩnh vực này rất lớn, là cơ hội vàng cho các DN.
Xác định đây là con đường tất yếu của nông nghiệp Việt Nam, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT cho rằng cần tiếp tục hoàn thiện thể chế chính sách về phân bón hữu cơ bằng cách cụ thể hóa Luật Trồng trọt, Nghị định 109/2018/NĐ-CP, cụ thể hóa Nghị định 57/2018/NĐ-CP về cơ chế, chính sách khuyến khích DN đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn...
Lê Thuý
Ông Nguyễn Xuân Cường - Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Việc đưa phân bón hữu cơ vào canh tác hữu cơ, canh tác nông nghiệp sạch không chỉ là một trào lưu mà đã trở thành yêu cầu bắt buộc, định dạng sản xuất nông nghiệp thời gian tới. Đây là cơ hội cho các DN khi tham gia đầu tư vào lĩnh vực này. Ông Nguyễn Hạc Thúy - Chủ tịch Hiệp hội Phân bón Việt Nam Nhà nước cần có chỉ thị hoặc nghị quyết về đề án phát triển chiến lược phân bón hữu cơ, từ từng hộ nông dân và từ các tập đoàn, tổng công ty, công ty đang sản xuất phân bón hóa học (vô cơ) có lộ trình thay đổi, phát triển công nghệ, công nghệ cao, sản xuất phân hữu cơ từ năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2025 - 2030. Ông Hoàng Trung - Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật Phải có chính sách ưu tiên, hỗ trợ các cơ sở/nhà máy sản xuất phân bón hữu cơ đăng ký mới; khuyến khích mở rộng quy mô, nâng công suất, đổi mới áp dụng các công nghệ sản xuất tiên tiến đối với các nhà máy/cơ sở sản xuất phân bón hữu cơ đang hoạt động nhằm đến năm 2020 hoàn thành mục tiêu sản xuất và tiêu thụ phân bón hữu cơ trong nước đạt 3 triệu tấn và tăng dần trong các năm tiếp theo. |