RCEP là Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực giữa ASEAN và 6 đối tác đã có FTA với ASEAN, gồm Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Australia và New Zealand. Hiệp định này bắt đầu đàm phán từ ngày 9/5/2013 và hiện vẫn trong quá trình tiếp tục đàm phán.
Theo đánh giá, cùng với các hiệp định thương mại tự do, RCEP sẽ mang lại những cơ hội mới cho Việt Nam, giúp tiếp cận các thị trường trong khu vực dễ dàng hơn.
Nhiều cơ hội từ RCEP
RECP ngày càng có vai trò quan trọng hơn trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực dịch chuyển mạnh mẽ, chủ nghĩa bảo hộ đang trỗi dậy, còn tương lai của TPP mờ mịt.
Bên cạnh đó, ngoài việc được kì vọng thúc đẩy tăng cường hợp tác kinh tế giữa các quốc gia ASEAN, RCEP còn là lực đẩy thúc đẩy hợp tác sâu rộng hơn giữa Việt Nam và Nhật Bản trong tương lai gần.
Nhận diện những cơ hội và thách thức từ RCEP mang lại, các chuyên gia kinh tế đánh giá, thực tế khi RCEP được thực hiện, Việt Nam và Nhật Bản sẽ có nhiều cơ hội thúc đẩy tăng trưởng thương mại.
Song để tận dụng được các cơ hội này, Việt Nam cần thiết lập mạng lưới sản xuất tốt, nhằm tạo ra giá trị gia tăng cao hơn cho nền kinh tế. Muốn làm được vậy, cần tiếp tục chú ý phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ để hình thành chuỗi sản xuất lớn, có uy tín và thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài.
Theo bà Nguyễn Thị Tuệ Anh, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, RCEP được kỳ vọng sẽ mang lại những cơ hội tăng trưởng kinh tế của Việt Nam như thâm nhập và mở rộng thị trường xuất khẩu, tham gia vào chuỗi giá trị xuất khẩu của khu vực… Riêng với thị trường Nhật Bản, RCEP sẽ là đòn bẩy thúc đẩy thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản.
“Để hiện thực hóa những cơ hội trong tương lai, chúng ta cần rà soát các rào cản trong mối quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Nhật Bản hiện tại”, bà Tuệ Anh cho biết.
Đánh giá về hợp tác phát triển công nghiệp giữa Việt Nam và Nhật Bản thời gian qua, chuyên gia kinh tế Võ Trí Thành nhận định, Việt Nam và Nhật Bản thời gian qua đã hợp tác rất thành công trong lĩnh vực xe máy, song chưa thành công đối với lĩnh vực công nghiệp ô tô.
Ông Thành cho rằng nguyên nhân là do cả hai phía. Việt Nam đưa ra những chính sách chưa phù hợp. Còn Nhật Bản vẫn chưa coi thị trường Việt Nam là trọng tâm_nên quá trình chuyển giao công nghệ, kỹ thuật bị hạn chế.
Lấy ví dụ từ ngành công nghiệp ô tô, chỉ ra những khó khăn trong quá trình chuyển giao công nghệ, cũng như phát triển ngành công nghiệp ô tô ở Việt Nam, ông Yoshifumi Fukunara, Viện Nghiên cứu Kinh tế ASEAN và Đông Á của Nhật Bản, cho rằng Việt Nam cần tiếp tục có chính sách ưu đãi cụ thể, đặc thù cho các DN sản xuất ô tô trong nước, đặc biệt DN làm phụ trợ.
“Lắp ráp chỉ là một ngành của công nghiệp sản xuất ô tô, còn linh kiện nữa. Vì vậy, Việt Nam nên dành thêm nhiều chính sách ưu đãi cho các DN sản xuất phụ tùng linh kiện”, ông Fukunara nói.
![]() |
Tại sao không dành 1 tỷ USD cho DN Việt Nam để có ngành công nghiệp nội địa phụ trợ Việt Nam
Có nên tiếp tục làm ô tô?
Liên quan tới câu chuyện ngành ô tô, chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan kể lại câu chuyện cách đây mấy năm, bà đã dự một hội nghị ở Băng Cốc (Thái Lan) về tiểu vùng Mekong, các DN Nhật đã có ý tưởng chuyển một số ngành sản xuất, lắp ráp phụ tùng ô tô ở mức thấp của Thái Lan sang Việt Nam để xây dựng dây chuyền sản xuất xe Hybrid hoặc sản xuất các dòng xe cao cấp hơn tại Thái Lan.
“Lúc bấy giờ, tôi đã chia sẻ với một số cơ quan ở Việt Nam. Đúng là Việt Nam có chính sách để thúc đẩy Toyota và một số hãng chuyển dịch nhà máy sang Việt Nam. Nhưng rồi mấy năm trời, có lẽ một mặt về phía Việt Nam không thực sự cố gắng làm, phía công ty Nhật thấy quá khó nên không thực hiện được. Đây là cơ hội chúng ta đã bỏ lỡ”.
Bình luận về những chính sách ưu đãi dành cho ngành ô tô hiện nay, bà Lan nêu quan điểm: “Tôi nhớ về đề xuất của Toyota cách đây hai năm, cụ thể là để Toyota ở lại Việt Nam với cái giá Việt Nam phải có chính sách ưu đãi hỗ trợ trực tiếp tương đương 2 tỷ USD. Tôi đặt câu hỏi, cái giá 2 tỷ USD có xứng đáng phải trả không để Toyota ở lại trong khi cơ bản vẫn là lắp ráp mà không chuyển giao gì, đây có đúng là cam kết thực sự phát triển ngành công nghiệp phụ trợ cho ngành ô tô Việt Nam”?
“Tôi cũng tự đặt câu hỏi cho chính mình là nếu Chính phủ có thể hỗ trợ 2 tỷ USD cho Toyota, tại sao không dành 1 tỷ USD cho DN Việt Nam để có ngành công nghiệp nội địa phụ trợ Việt Nam, không phải mang linh kiện, phụ trợ từ Thái Lan sang”, bà Lan nói.
Theo ông Võ Trí Thành, chuyên gia kinh tế, ngành ô tô muốn phát triển, dù chính sách tốt đến đâu, phải dựa vào lợi thế, quy mô và chuyển giao công nghệ. Vấn đề ở Việt Nam là chính sách. Có quá muộn để thay đổi chính sách?
Một chuyên gia khác đặt câu hỏi là có cần làm ô tô nữa hay không, bởi hơn 20 năm nay, Việt Nam chỉ làm được xe tải còn xe ô tô con hoàn toàn lắp ráp, trong khi nhiều nước trên thế giới đã có nền công nghiệp sản xuất ô tô hùng mạnh. “Giả sử, bây giờ Việt Nam sản xuất được ô tô, liệu có đủ sức cạnh tranh được với các thị trường này”, vị này nhấn mạnh.
Đồng quan điểm, nhận định tương lai ngành ô tô, chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan cho rằng chúng ta phải nhìn một thực tế là ngành ô tô trên thế giới đang thay đổi mạnh mẽ, với công nghệ mới, nhiều dòng ô tô mới ra đời. Vậy những dòng ô tô như đang làm ở Việt Nam, tương lai còn bao nhiêu.
Việt Nam đang gặp phải sự cạnh tranh gay gắt từ các thị trường khác cùng khu vực. Thực tế, trung tâm của ngành ô tô trong khu vực hiện nay là Thái Lan, Indonesia… chứ không phải Việt Nam.
Lê Thúy
Ông Hiraki Yashro - Đại diện cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) tại Việt Nam Các DN Nhật Bản vẫn còn nhiều niềm tin đối với thị trường ô tô Việt Nam. Vì vậy, nếu Việt Nam có chính sách phát triển ngành công nghiệp này đúng đắn, phù hợp, Nhật Bản sẽ nỗ lực hỗ trợ Việt Nam phát triển ngành này trong thời gian tới. Bà Phạm Chi Lan - Chuyên gia kinh tế Chính sách của Chính phủ Việt Nam còn nhiều cái phải làm ở nội bộ. Nhưng chúng tôi cũng rất mong các chuyên gia Nhật Bản trong hợp tác giữa Nhật Bản và Việt Nam, trong chiến lược công nghiệp hóa, có lời khuyên nhiều hơn với Chính phủ Việt Nam. Bà Nguyễn Thị Tuệ Anh - Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương Hạn chế lan tỏa công nghệ giữa các DN Nhật Bản và Việt Nam còn khá thấp, tính chất không còn mới nữa mà từ lâu rồi nhưng vẫn chưa được giải quyết. Nếu không được cải thiện, tình trạng này sẽ trở thành rào cản đối với những cơ hội khi RCEP chính thức có hiệu lực. |