Nói về tiềm năng của hoa Việt hiện nay, ông Trần Xuân Định, Cục phó Cục Trồng trọt (Bộ NN&PTNT), cho biết trong vòng 10 năm gần đây (2005-2015), diện tích trồng hoa đã tăng hơn 2,3 lần, giá trị sản lượng tăng 7,2 lần (đạt 6.500 tỷ đồng, trong đó xuất khẩu xấp xỉ 50 triệu USD). Mức tăng giá trị thu nhập trên một đơn vị hécta là ba lần, hình thành nhiều mô hình đạt từ 800 triệu đến 2,5 tỷ đồng trên một hécta.
Bế tắc đầu ra
Theo Gs.Ts. Trần Duy Quý, Viện trưởng Viện Nghiên cứu hợp tác châu Á – Thái Bình Dương, kết quả điều tra nhu cầu thị trường hoa, cây cảnh của Việt Nam cho thấy, giai đoạn 2000 – 2011, trung bình mỗi năm tăng 9%. Giai đoạn 2011-2015, tăng trên 11%.
Một số thị trường tiêu thụ hoa cây cảnh, cây thế đã bắt đầu được mở cửa do hội nhập quốc tế và hội nhập khu vực. Đây sẽ là cơ hội lớn cho ngành hàng hoa, cây cảnh Việt Nam.
Song thực tế nhìn lại, ngành hoa Việt vẫn chưa phát triển tương xứng với tiềm năng này. Hiện, Việt Nam vẫn phải nhập khẩu một lượng lớn cây giống và lan cắt cành từ Thái Lan để phục vụ nhu cầu trong nước.
Ông Trần Huy Đường, Giám đốc công ty TNHH Trang trại Langbiang, nguyên Chủ tịch Hiệp hội Hoa thành phố Đà Lạt, chia sẻ: “Việt Nam có thể trồng hoa để xuất khẩu, nhưng có xuất khẩu được hoa hay không lại là chuyện khác. Điều này phụ thuộc vào định hướng của Nhà nước, cũng như các cơ quan lãnh đạo có xem hoa là một mặt hàng chủ lực của Việt Nam để xuất khẩu hay không. Từ đây mới bàn đến việc làm thế nào để xuất khẩu hay trồng hoa gì để xuất khẩu.
“Chính quyền lẫn người dân gần như “lãng quên” cây hoa xuất khẩu, trái lại, mới chú trọng các loại rau, củ, quả”, ông Đường cho biết.
Tính đến tháng 1/2016, Đà Lạt – nơi được mệnh danh là “xứ ngàn hoa” đang có trên 400 loài hoa với nhiều giống hoa các loài, trong đó có 70 giống hoa cúc, 30 giống đồng tiền, 30 giống cẩm chướng, hàng chục giống hoa hồng… trải rộng trên 7.800ha, sản lượng đạt 2,5 tỷ cành, nhưng tỷ lệ xuất khẩu chỉ mới chiếm 10% mỗi năm. Trong đó, các DN có vốn đầu tư nước ngoài như: công ty TNHH Agrivina (Dalat Hasfarm), công ty TNHH Hoa Trường Xuân (Đài Loan)… chiếm phần lớn.
“15 năm trước, trong một báo cáo tổng kết, sản lượng hoa xuất khẩu của Đà Lạt chiếm 5% trong tổng sản lượng hoa sản xuất thì nay con số xuất khẩu cũng chỉ khoảng 5%. Con số xuất khẩu tăng tuyệt đối thời gian qua chủ yếu là của các DN hoa 100% vốn nước ngoài” – ông Trần Huy Đường cho biết.
Còn với thị trường nội địa, hoa “nội” vẫn đang phải chịu sự cạnh tranh gay gắt từ hoa nhập ngoại. Ngay trong dịp Tết Bính Thân vừa qua, nhiều người dùng Việt sẵn sàng bỏ ra một số tiền không hề nhỏ để săn tìm hoa đào hay mai nhập khẩu từ Mỹ về trưng Tết vì nó độc, lạ và sang. Trong khi ai cũng biết, từ trước đến nay, đào hay mai vốn là loài hoa Việt có thế mạnh tiêu thụ vào mỗi dịp Tết đến Xuân về.
![]() |
Sản xuất đơn lẻ, nghề hoa Đà Lạt không bao giờ thoát khỏi “ao làng”.
Nguồn giống phụ thuộc
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Quốc Doanh cũng thừa nhận rằng hiện nay, cây hoa vẫn chưa được khai thác và phát triển đúng với tiềm năng vốn có của nó, kim ngạch xuất khẩu chỉ có 60 triệu USD trong tổng số hơn 30 tỷ USD xuất khẩu nông, lâm, thủy sản. Và đáng buồn, hoa Việt Nam chưa hề có thương hiệu trên thị trường hoa thế giới.
Một phần nguyên nhân được ông Doanh chỉ ra là do kỹ thuật sản xuất hoa của nước ta còn khá lạc hậu so với các nước trong khu vực, chủ yếu vẫn là sản xuất ngoài tự nhiên.
Năm 2011, tỷ lệ hoa, cây cảnh áp dụng tiến bộ khoa học đạt khoảng 35%. Diện tích trồng hoa, cây cảnh trong nhà có mái che chiếm 12%. Tỷ lệ này có gia tăng đáng kể trong 2 – 3 năm gần đây do chính sách hỗ trợ đầu tư, đặc biệt là chính sách về áp dụng mô hình ứng dụng công nghệ cao trong trồng trọt.
Nhiều giống hoa chọn lọc, nhập nội và tuyển chọn đã được công nhận như các giống hoa loa kèn, hoa hồng, hoa cúc, lan hồ điệp và địa lan… Song, các giống hoa cao cấp, hoa văn phòng, hoa chậu… vẫn chưa được chủ động sản xuất mà chủ yếu nhập khẩu.
Gs.Ts. Trần Duy Quý cho biết, hầu hết các giống hoa có chất lượng tốt đều phải nhập từ nước ngoài. Hiện, các cơ sở nhân giống lan bằng nuôi cấy mô được thành lập ở Tp Hồ Chí Minh đều sản xuất với quy mô nhỏ như Viện Sinh học nhiệt đới, Trung tâm Nghiên cứu giống (ĐH Khoa học Tự nhiên), công ty CP Phong lan xuất khẩu nên lượng giống không đủ cung ứng cho người trồng.
Chính vì vậy, giá cây giống còn cao, như cây giống hoa lan Monkara từ 35.000 – 40.000 đồng/cây. Nếu đầu tư 1.000 cây giống ban đầu cho quy mô một hộ trồng thì cần phải bỏ ra 40 triệu đồng. Còn ở các tỉnh phía Bắc thì nhân giống chủ yếu là lan hồ điệp. Tuy nhiên, vẫn chỉ cung ứng được 15 – 20%, còn lại phải nhập khẩu từ Đài Loan, Trung Quốc. Ông Vương Xuân Nguyên, Chánh Văn phòng Hội sinh vật cảnh thành phố Hà Nội, cho biết tình trạng liên kết 4 nhà (nhà nông – DN – nhà khoa học – nhà quản lý) trong sản xuất và tiêu thụ hoa cây cảnh ở Việt Nam thời gian vừa qua còn lỏng lẻo đã và đang cản trở tiềm năng phát triển của ngành sản xuất hoa hiện nay.
Theo ông Nguyên, nhà nông với vai trò là người sản xuất ra các sản phẩm hoa cây cảnh vẫn còn quen với phương thức sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, chậm tiếp cận thông tin thị trường, chưa hoàn toàn gạt bỏ được tư tưởng ham lợi trước mắt và khó tính toán được chiến lược lâu dài.
DN đang còn ngần ngại đầu tư cho sản xuất kinh doanh và làm dịch vụ hoa cây cảnh do vốn đầu tư lớn, rủi ro cao và thu hồi chậm. Nhà khoa học có vai trò quan trọng trong việc tạo đầu vào có chất lượng cao, giảm giá thành nhờ công nghệ… nhưng hiện nay, việc liên kết với các nhà còn lại hiệu quả chưa thực sự rõ nét.
Cuối cùng là nhà quản lý cần có những cơ chế quản lý chặt chẽ trong việc quản lý chất lượng đầu vào và đầu ra của sản phẩm…
Trước tình trạng cung luôn vượt cầu, đại diện văn phòng JETRO (Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản tại Tp.HCM) đã chia sẻ kinh nghiệm ở Nhật, để đảm bảo cung cầu, giá hoa được công ty bán đấu giá hoa Ota thông báo hằng ngày, thông tin về sản lượng và nhu cầu thị trường cũng được công khai, minh bạch để người sản xuất hoa biết. Từ đó cung cầu hài hòa, không xảy ra tình trạng hoa rớt giá như ở Việt Nam do cung vượt cầu.
Lê Thúy
PGs.Ts. Đặng Văn Đông - Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu Rau Quả Nông dân trồng hoa và doanh nghiệp trong lĩnh vực hoa – cây cảnh cần tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ cao, gia tăng liên kết sản xuất – tiêu thụ và nghiên cứu kỹ thị trường, chọn hướng đầu tư sản xuất để đáp ứng đúng thị hiếu và nhu cầu của thị trường. Gs.Ts.KH. Trần Duy Quý - Viện trưởng Viện Nghiên cứu hợp tác châu Á – Thái Bình Dương Hiện, nông dân, doanh nghiệp sản xuất hoa Đà Lạt chủ yếu vẫn là tự “bơi”, thật khó để vươn ra biển lớn. Chúng tôi cần được cơ quan quản lý lắng nghe và có hướng điều chỉnh thích hợp về chính sách và các hỗ trợ khác như thông tin thị trường, thống kê định hướng sản xuất… Sản xuất đơn lẻ, nghề hoa Đà Lạt không bao giờ thoát khỏi “ao làng”. Muốn ra “biển lớn”, chúng tôi cần sự hỗ trợ nhiệt tình của cơ quan quản lý. Gs.Ts.KH. Trần Duy Quý - Viện trưởng Viện Nghiên cứu hợp tác châu Á – Thái Bình Dương Chúng ta cần tiếp tục đầu tư nguồn lực cho khoa học công nghệ, nghiên cứu chọn tạo, nhập nội giống hoa, cây cảnh, chú trọng điều tra, phục tráng, cải tiến và nhân các giống hoa bản địa, nâng cao năng lực sản xuất hạt giống, cây giống bằng các phương pháp truyền thống và công nghệ mới. |