Theo dự kiến, Nghị quyết của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2017 sẽ được ban hành ngay trong tháng 1/2017.
Trong 3 năm trở lại đây, thứ hạng môi trường kinh doanh Việt Nam đã tăng 9 bậc, dù vượt Philippines nhưng vẫn chưa đạt mức trung bình của ASEAN 4 (Singapore, Thái Lan, Malaysia, Indonesia), thậm chí một số chỉ tiêu chưa đạt mức trung bình của ASEAN 6.
Đạt mức ASEAN 4?
Bên cạnh 5/10 chỉ số tăng hạng, Việt Nam có 5 chỉ số bị giảm. Chẳng hạn như khởi sự kinh doanh giảm 10 bậc và ở thứ hạng thấp (từ vị trí số 111 xuống 121), chỉ số có mức giảm bậc lớn nhất. Hay chỉ số cấp phép và đăng ký tài sản giảm một bậc… Các chỉ số giảm là do Việt Nam không có cải cách nào trong lĩnh vực này.
Trong dự thảo nghị quyết về cải thiện kinh doanh mà Chính phủ giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH&ĐT) chủ trì soạn thảo, đặt ra chỉ tiêu, đến hết năm 2017, một số chỉ tiêu môi trường kinh doanh của Việt Nam phải đạt mức ASEAN 4.
Dự thảo nhấn mạnh việc cải cách toàn diện để tạo lập hệ thống hỗ trợ kinh doanh, môi trường đầu tư thuận lợi, ổn định cho khởi nghiệp, mục tiêu có 1 triệu doanh nghiệp (DN) vào năm 2020, trong đó 10% là DN sáng tạo.
Riêng về năng lực cạnh tranh của DN Việt Nam trong năm 2017, chuyên gia kinh tế Nguyễn Hoàng Dũng (Viện Kinh tế và Quản lý Tp.HCM) đã đưa ra nhận định là rất triển vọng. Việt Nam sẽ thăng ít nhất 5 bậc nữa trên bản đồ phản ánh năng lực cạnh tranh chung trên thế giới.
Theo ông Dũng, điều này được cho là đến từ công cuộc hội nhập sâu rộng với sân chơi quốc tế đã đến hồi buộc phải “nâng” lên sau gần 10 năm kinh nghiệm khi “chơi” với sân chơi WTO, nhất là sức ép từ những cam kết quốc tế từ các Hiệp định đa phương và song phương FTA thế hệ mới (EVFTA, KVFTA, RCEP, FTAAP). Những chuẩn mới về xuất nhập khẩu rất cao, buộc DN Việt Nam phải đổi mới sáng tạo và phải vượt lên mới có chỗ đứng trong các thế trận mới.
![]() |
Năng lực cạnh tranh của DNViệt Nam trong năm 2017 được dự báo là rất triển vọng
Tuy nhiên, để nói về khu vực tư nhân, như lưu ý của ông Sandeep Mahajan, chuyên Kinh tế trưởng của Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam, khu vực này vẫn có năng suất thấp mà một trong những nguyên nhân vì khung chính sách cạnh tranh và khả năng thực thi còn yếu. Khung khổ pháp lý để bảo vệ quyền đối với tài sản của tư nhân chưa phát triển.
Còn theo nhận xét của chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan, năng suất của khu vực tư nhân trong nước bị giảm sút. Các DN tư nhân trong nước thường rất nhỏ nên khó có thể tăng năng suất và ngày càng trở nên thâm dụng vốn. Trong khi đó, DN tư nhân lớn không chỉ ít về số lượng mà thường kém hiệu quả hơn các DN nhỏ.
Cần môi trường bình đẳng
Trong nội dung của Báo cáo Việt Nam 2035 do WB, Bộ KH&ĐT, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) thực hiện đã từng nói rõ tình trạng một số ưu đãi ngầm và công khai được những người có quyền lực dành cho các doanh nghiệp có quan hệ thân hữu (gồm các DNNN, hầu hết các DN có vốn đầu tư nước ngoài – FDI và một số DN tư nhân lớn trong nước) mà không cân nhắc đầy đủ về hiệu quả kinh tế, khiến cho nhiều DN tư nhân rất khó phát triển, ngay cả khi họ hoạt động có hiệu quả.
Thực ra, môi trường kinh doanh tương đối an toàn và cởi mở với khá nhiều ưu đãi đã khiến các công ty FDI ngày càng tăng sự hiện diện và dẫn dắt tăng trưởng nhanh chóng trong công nghiệp chế tạo và xuất khẩu ở Việt Nam.
Tính đến nay, khu vực FDI đã đóng góp trên 50% giá trị công nghiệp chế tạo và gần 70% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên, sự kết nối giữa họ với các DN trong nước vẫn chưa diễn ra, nhất là ở một số ngành quan trọng, gây cản trở cho tăng năng suất thông qua chuyển giao công nghệ và nâng cao trình độ.
Một số ưu đãi ngầm và công khai được những người có quyền lực dành cho các DN có quan hệ thân hữu (gồm các DN nhà nước, hầu hết các DN có vốn đầu tư nước ngoài và một số DN tư nhân lớn trong nước) mà không cân nhắc đầy đủ về hiệu quả kinh tế, khiến cho nhiều DN tư nhân rất khó phát triển, ngay cả khi họ hoạt động có hiệu quả.
Giới chuyên gia cho rằng Việt Nam yếu về khả năng khởi nghiệp kinh doanh, bảo vệ nhà đầu tư, đóng thuế và giải quyết phá sản, đây là những điều kiện cơ bản để quyết định thành lập một công ty.
Chỉ có 3% DN Việt Nam báo cáo không có rào cản đối với việc nâng cấp các quy trình và công nghệ. Những hạn chế về tài chính, bí quyết công nghệ và cơ sở hạ tầng cơ bản được chứng minh là các vấn đề quan trọng, trừ cơ sở hạ tầng thông tin liên lạc.
Theo các điều kiện thị trường hiện hành, giới chuyên gia tỏ ra băn khoăn khi dường như các DN tư nhân ở Việt Nam tham gia thị trường cũng như có lợi nhuận là nhờ sử dụng các nguồn vốn xã hội và chính trị mà không nhất thiết phải có tài năng.
Rõ ràng, tác động tiêu cực của các yếu tố này tới hiệu suất của các DN tư nhân trong nước không đáng ngạc nhiên. Nói như bà Phạm Chi Lan, một trong những điều kiện tiên quyết để tăng trưởng năng suất là cần tạo môi trường thuận lợi để nâng cao năng lực cạnh tranh và năng suất khu vực tư nhân trong nước. Tận dụng các cơ hội ngoại thương, tham gia hiệu quả các chuỗi giá trị toàn cầu (GVCs).
Hơn nữa, các thể chế cần bảo đảm sự cạnh tranh tự do và công bằng. Trong đó, chính sách và khung pháp lý về cạnh tranh phải đảm bảo áp dụng đồng đều đối với tất cả các DN, tập trung chống các hành vi hạn chế cạnh tranh có hại nhất và hoạt động trong khung khổ minh bạch, công bằng và không phân biệt đối xử.
Thế Vinh