Chẳng hạn, một doanh nghiệp (DN) FDI hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam trên 1 năm thì toàn bộ phần giá trị gia tăng của DN đó được tính vào GDP của Việt Nam. Một DN FDI khai thác tài nguyên ở Việt Nam cũng được tính toán theo nguyên tắc trên. Như vậy, tăng trưởng về quy mô cũng như về số lượng của chỉ tiêu GDP thực ra không phản ánh đầy đủ bức tranh của nền kinh tế. Vì nếu như chuyên về khai thác tài nguyên, DN FDI sẽ chuyển phần lợi nhuận về nước mình nhưng vẫn được thể hiện trong GDP của Việt Nam.
"Của để dành" ngày càng giảm
Theo ông Bùi Trinh - chuyên gia của Tổng cục Thống kê, hiện hầu như các nhà nghiên cứu cũng như các nhà hoạch định chính sách thường đánh đồng ý niệm tăng trưởng kinh tế với tăng trưởng GDP. Chỉ tiêu GDP chỉ tính đến các đơn vị thường trú trên lãnh thổ Việt Nam nhưng quên rằng cái mà một quốc gia thực sự được hưởng là tổng thu nhập quốc gia (GNI) và thu nhập quốc gia khả dụng (NDI) chứ không phải chỉ tiêu "phù phiếm" như GDP.
Ts. Vũ Thành Tự Anh - Giám đốc nghiên cứu của Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright, cho rằng trong 4 "động cơ" tăng trưởng thì 3 "động cơ nội" gồm khu vực kinh tế nhà nước, khu vực DN tư nhân trong nước và nông nghiệp đang "trục trặc". Chỉ có một "động cơ ngoại" - khu vực DN có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) là đang "chạy tốt". Điều này có thể có lợi cho chỉ tiêu ít ý nghĩa là tăng trưởng GDP, nhưng nó làm cho tốc độ tăng trưởng của GNI ngày càng thấp hơn tăng trưởng GDP và góp phần làm mức độ "để dành" trong nước ngày càng giảm, và nếu loại trừ kiều hối thì tỷ lệ này chỉ chiếm khoảng trên dưới 20% GDP.
Trong những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng kinh tế bắt đầu chậm lại và lạm phát luôn bị "buộc tội" là rào cản của tăng trưởng kinh tế. Vấn đề tăng trưởng và lạm phát luôn làm "đau đầu" các nhà hoạch định chính sách, nhưng liệu giá cả có phải là "thủ phạm" chính?
![]() |
Theo ông Bùi Trinh, trong niên giám của Tổng cục Thống kê hiện nay không chỉ công bố số liệu về GDP mà còn công bố cả về GNI, nhưng đáng tiếc là hầu như không có hoặc rất ít người sử dụng số liệu này trong các nghiên cứu hoặc báo cáo. Chỉ tiêu này phản ánh đúng và thực chất hơn cả giá trị mà đất nước được hưởng.
Có người ví tài nguyên thiên nhiên của một quốc gia giống như vàng (của cải) của ông cha trong một gia đình hay dòng họ để lại cho con cháu. Nhưng vì các cụ cất rất kỹ nên gia đình phải mời một người ngoài vào để lấy hộ số của cải của mình và tất nhiên là phải chia cho người ta một phần của cải này. Toàn bộ số của cải lấy được, trước khi trừ đi một phần chi phí thuê người tìm kiếm, sẽ được tính vào GDP. Gia đình đó có thể đi "khoe" với hàng xóm về tổng số vàng tìm được (GDP) nhưng thực chất cái mà gia đình được hưởng chỉ là một phần trong số tài sản của mình (GNI).
"Báo động" chi trả sở hữu ra nước ngoài
Xem lại số liệu trong 12 năm từ 2000 - 2011, về quy mô GDP năm 2012 tăng 6,7 lần năm 2000, trong khi tốc độ chi trả sở hữu ra nước ngoài thuần của năm 2012 so với năm 2000 gần 26 lần. GDP đã loại trừ yếu tố giá năm 2011 tăng so với năm 2000 là 2,3 lần, nhưng tốc độ tăng chi trả sở hữu ra nước ngoài tăng xấp xỉ 9 lần.
Số liệu tính toán từ niên giám Thống kê cho thấy tỷ trọng giá trị gia tăng của khu vực FDI trong GDP năm 2000 khoảng 13%, đến năm 2011, tỷ lệ này tăng khoảng 7 điểm phần trăm (chiếm khoảng 20% GDP).
Nếu xét về GNI theo giá thực tế năm 2012 so với năm 2000 chỉ tăng 6 lần và nếu lấy chỉ số giảm phát GDP để loại trừ yếu tố giá của tổng thu nhập quốc gia, thì GNI chỉ tăng 2,15 lần. Nếu xét theo 2 giai đoạn 2000 - 2006 và 2007 - 2012 thì GDP và GNI tăng bình quân tương ứng theo 2 giai đoạn là 7,5 - 7,4% và 5,9 - 5,3%. Điều này cho thấy độ doãng giữa tốc độ tăng trưởng GDP và GNI ngày càng lớn. Nếu năm 2000, tỷ lệ giữa GNI và GDP là 99% thì đến năm 2011 tỷ lệ này chỉ còn 94%, tức là luồng tiền ra ngày càng lớn và GNI ngày càng nhỏ so với GDP.
Tình hình như từ năm 2011, đến nay, khi các "động cơ nội" của nền kinh tế suy trầm, chỉ có "động cơ ngoại" chạy tốt tuy có làm cho chỉ tiêu "phù phiếm" GDP được hưởng lợi trong tăng trưởng, nhưng nguồn lực của quốc gia sẽ ngày càng suy kiệt. Điều này cho thấy ngoài việc thâm hụt thương mại "kinh niên" thì việc chi trả sở hữu ra nước ngoài cũng đáng báo động không kém. Phải chăng đây là hậu quả của việc kêu gọi đầu tư FDI một cách quá thoải mái và không có định hướng? Ngoài ra, cũng do quá chú trọng đến chỉ tiêu GDP mà quên mất rằng cái Việt Nam được hưởng sau cùng là GNI.
Nói như đại biểu Quốc hội Trương Trọng Nghĩa: "Các thành tựu hiện nay nói với nhau chỉ để an ủi vậy thôi. Như việc chúng ta vẫn hay nói Việt Nam là điểm đến của các nhà đầu tư nước ngoài. Nhưng thực chất đó là điểm đến của công nghệ lạc hậu, quản lý lỏng lẻo, chuyển giá…".
-------------------------------------------
Không khớp nhau là do căn bệnh thành tích
Ông Nguyễn Bích Lâm - Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê
------------------------------------
Lý do sự vênh số liệu GDP giữa tỉnh và Trung ương là do cách tính. Cách tính GDP của Việt Nam khác với cách tính của các nước khác. Nếu trên thế giới, GDP tính cho toàn bộ nền kinh tế thì ở Việt Nam, do còn phải phục vụ yêu cầu của UBND tỉnh, thành phố trong đánh giá, điều hành, dự báo tình hình, nên phải tính cả chỉ tiêu GDP cho tỉnh.
Ngoài ra, nguyên nhân quan trọng để xảy ra tình trạng không khớp nhau là do căn bệnh thành tích. Do đặt ra các mục tiêu quá cao, nên khi báo cáo thì các địa phương cố đẩy số ảo lên để thực hiện được mục tiêu đã đặt ra. Ví dụ, kết thúc năm 2012, nền kinh tế được đánh giá là suy giảm, song số liệu điều tra của Tổng cục Thống kê qua 3 chỉ số chính: tỷ lệ thất nghiệp; tỷ lệ thiếu việc làm và thu nhập, tiền lương vẫn được "cải thiện nhẹ".
Theo đó, tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi đều tương ứng giảm nhẹ lần lượt 1,99% và 2,8% so với các mức 2,22% và 2,96% trong năm 2011. Riêng đối với khu vực thành thị, tỷ lệ này, dù vẫn cao hơn mức thất nghiệp bình quân chung, nhưng lại thể hiện sự giảm nhẹ từ 3,6% năm 2011 xuống còn 3,25% trong năm 2012. Những con số thống kê nêu trên nằm ngoài dự đoán của các chuyên gia phân tích và khó lý giải trong bối cảnh khu vực DN gặp nhiều khó khăn trong năm 2012 dẫn đến nhiều DN phải giải thể hoặc hoạt động cầm chừng...
Chính sách kinh tế vĩ mô chủ yếu đối phó với bất ổn
Ts. Trần Du Lịch - Thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ Quốc gia
------------------------------------
5 năm trở lại đây, chính sách kinh tế vĩ mô chủ yếu đối phó với bất ổn, vì thế "đau đâu chữa đó" chứ không trọng cái nào hết. Và việc trong cùng một năm có thể chuyển từ thái cực nọ sang thái cực kia để ứng phó đã khiến cả DN và người dân đều "xác xơ không chịu nổi".
GDP hiện nay chưa thực chất
Ông Nguyễn Việt Phong - Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
------------------------------------
Chỉ tiêu GDP hiện nay chưa thực chất. Cụ thể, hiện các đánh giá tình hình kinh tế - xã hội của Việt Nam thường gắn chặt với chỉ tiêu tăng GDP. Trong khi đó, GDP lại được cộng tất cả phần giá trị gia tăng của các ngành trong nền kinh tế và thuế NK. Như vậy có nghĩa một DN FDI hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam trong 1 năm thì toàn bộ giá trị tăng thêm của họ trong năm đó sẽ được tính vào GDP của Việt Nam. Trong khi đó, nếu DN đó ngay cả khi khai thác tài nguyên của Việt Nam thì họ cũng sẽ chuyển lợi nhuận về nước nhưng khoản lợi nhuận đó thực tế đã được tính vào GDP của Việt Nam. Nên GDP không phản ánh đầy đủ bức tranh nền kinh tế.
Việt Nguyễn