Theo ông Thắng, kết quả đạt được là các yếu tố thị trường và các loại thị trường được hình thành đồng bộ hơn, gắn kết với thị trường khu vực và quốc tế. Hầu hết các loại giá được xác lập theo nguyên tắc thị trường; thực hiện cơ chế giá thị trường có sự quản lý của Nhà nước đối với một số loại hàng hóa - dịch vụ thiết yếu,…
Để phát triển khu vực DN nhỏ và vừa, Nhà nước cần chức năng bà đỡ để kết nối quá trình chuyển giao công nghệ
Trong khi đó, hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức, từng bước thích ứng với nguyên tắc và chuẩn mực của thị trường toàn cầu. Việt Nam cũng đã thiết lập được nhiều quan hệ đối tác chiến lược về kinh tế. Tích cực đóng góp xây dựng Cộng đồng ASEAN; hoàn thiện thị trường trong nước đầy đủ hơn theo cam kết WTO; đàm phán, ký kết và thực hiện nhiều hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương thế hệ mới.
Tuy nhiên, đứng ở góc độ cơ quan nghiên cứu, tham mưu cho Bộ KH&ĐT, qua quá trình thực tiễn đổi mới vừa qua, ông Thắng nhận định, quá trình đổi mới kinh tế Việt Nam đã trải qua 30 năm và còn đang tiếp tục, với các làm cơ bản là theo kiểu dò đá qua sông vì chúng ta phải học hỏi, đúc rút kinh nghiệm và áp dụng các mô hình, các phương thức quản lý khác nhau.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển thì các yếu tố như nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là vai trò của kinh tế Nhà nước, DN Nhà nước còn hạn chế, còn khác biệt và chưa theo kịp với yêu cầu đổi mới trong hội nhập quốc tế. Chúng ta còn lúng túng, thiếu nhất quán trong điều hành cơ chế, chính sách phát triển kinh tế, do đó chưa huy động được hết nguồn lực trong và ngoài nước phát triển.
Đặc biệt, do các mô hình cũ không phù hợp, mô hình đổi mới trong cách thức quản lý, kiểm soát nguồn lực, điều hành doanh nghiệp Nhà nước của Việt Nam đang đi phải học hỏi và đúc rút các kinh nghiệm của các nước tiên tiến trên thế giới, quá trình đan xen, khiến đổi mới tại nhiều nơi còn chậm, còn nhiều do dự.
Phấn đấu xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế sâu rộng, có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, vận hành đẩy đủ, đồng bộ, hiệu quả theo quy luật kinh tế thị trường, cạnh tranh bình đẳng, minh bạch là mục tiêu của Việt Nam. Đi liền với đó là sử dụng các thể chế, nguồn lực, công cụ và chính sách điều tiết để phát triển kinh tế phải đảm bảo phát triển văn hóa, dân chủ và tiến bộ...
Để thực hiện mục tiêu trên, Việt Nam cần áp dụng các mô hình, các phương thức quản lý và thay đổi từ tư duy đến hành động. Thời gian qua, Việt Nam đã mở cửa thị trường nhiều ngành nghề lĩnh vực để đảm bảo tính cạnh tranh. Bên cạnh đó,, việc thừa nhận khu vực kinh tế tư nhân là quan trọng hàng đầu, hướng đến cải cách môi trường đầu tư, kinh doanh để tạo điểm đến cho doanh nhân, nhà đầu tư khắp nơi trên thế giới là cách mà Việt Nam đã làm. Tuy nhiên, kết quả thực hiện vẫn còn nhiều hạn chế.
Thep PGS Bùi Tất Thắng, có thể xem xét mô hình của Việt Nam về tính chất theo xu hướng hiện đại, hôi nhập sâu rộng với quốc tế. Về cơ chế vận hành, hướng đên thị trường đầy đủ, đồng bộ và về mục tiêu, đảm bảo bình đảng, kiểm soát sự độc quyền của DN Nhà nước, cải thiện môi trường đầu tư và đặc biệt là các loại thị trường được vận hành thông suốt, cạnh tranh và ngày càng hoàn thiện hơn.
Việt Nam đã và đang đi vào quá trình hội nhập cao, mọi lĩnh vực, mọi ngành nghề, do đó để đẩy nhanh quá trình đổi mới, tạo bước ngoặt phát triển cần để đẩy nhanh cải cách khu vực hành chính, đổi mới từ tư duy đến hành động quản lý điều hành kinh tế. Một rtong những khâu quan trọng thực hiện tinh giản biên chế gắn với cải cách tiền lương. Đổi mới việc đề bạt sử dụng cán bộ công chức nhằm tăng tính công khai, minh bạch thi tuyển chức danh.
Mọi doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều phải và được đảm bảo hoạt động theo nguyên tắc thị trường, theo pháp luật. Kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của nền kinh tế, thực thi hiệu quả quyền tự do kinh doanh và kiểm soát độc quyền, tăng cường minh bạch của các DN Nhà nước và đặc biệt là đẩy nhanh tái cơ cấu DNNN, chống thất thoát tài sản và nguồn lực quốc gia.
Theo ông Thắng, vấn đề của khu vực doanh nghiệp Việt Nam hiện nay là làm sao để phát triển khu vực doanh nghiệp, trong đó đặc biệt khu vực DN nhỏ và vừa đang chịu ảnh hưởng của canh tranh thiếu lành mạng, chính sách hỗ trợ không hiệu quả...
"Cần khuyến khích DN nhỏ hình thành các DN lớn, thương hiệu mạnh, đó là bước đi của nhiều nền kinh tế đã làm, chứ không chỉ trông chờ vào khu vực DN Nhà nước. Hỗ trợ các ý tưởng khởi nghiệp, các sáng kiến và đặc biệt là đầu tư cho nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ vào đổi mới, phát triển DN nhỏ tạo hiệu quả vào sản xuất, tăng chuỗi giá trị", Viện trưởng Thắng cho hay.
Trên thực tế, đầu tư ngân sách cho lĩnh vực khoa học công nghệ của Việt Nam trong các năm qua còn rất thấp, đây là ngành luôn đúng vị trí thứ "áp chót" về chi ngân sách hàng năm. Theo các chuyên gia kinh tế, chính vì việc đầu tư cho khoa học đã ít, lại dồn vào tay các DN Nhà nước, các Viện nghiên cứu không nhiều hiệu quả, trong khi đó nơi cần các công trình nghiên cứu có tính thực tế, áp dụng hiệu quả là các DN, liên minh kinh tế và các tập đoàn lớn lại phải tự chủ... Chính vì điều này, khiến giá trị gia tăng trong nền kinh tế thấp, nguồn lực tăng trưởng vẫn phụ thuộc vào các dạng tài nguyên, nhân lực rẻ và thâm dụng vốn nặng nề.
Ông Thắng nhấn mạnh, muốn đổi mới mô hình tăng trưởng, cần đầu tư đúng, đủ vào khoa học công nghệ. Chìa khóa là khu vực khởi nghiệp, ý tưởng khởi nghiệp và các liên minh sáng tạo. "Xây dựng thị trường khoa học và công nghệ, trong đó cần xây dựng cơ chế để thương mại hóa các sản phẩm khoa học, công nghệ thành sàn giao dịch cho DN. Đặt hàng, đấu thầu, khoán kinh phí theo kết quả đầu ra trong nghiên cứu khoa học, để chống lại những nghiên cứu bỏ ngăn tủ hay xếp vào thư viện, không có tính ứng dụng", TS Thắng nêu.
Để phát triển khu vực DN nhỏ và vừa, Nhà nước cần chức năng bà đỡ để kết nối quá trình chuyển giao công nghệ, yêu cầu và thúc đẩy chuyển giao công nghệ giữa khu vực DN đầu tư nước ngoài và trong nước để DN cạnh tranh sản phẩm tốt hơn. Nhà nước nên xây dựng, công khai các hệ thống cơ sở dữ liệu về khoa học công nghệ, hình thành các tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ cho DN.
Lê Thúy