Việt Nam đứng trong danh sách 3 nước có sản lượng XK gạo đứng đầu thế giới nhưng kim ngạch XK gạo chưa tương xứng với tiềm năng chỉ đạt khoảng 3 tỷ USD, bằng khoảng 1/2 kim ngạch XK gạo của Thái Lan. Phân tích chuỗi cung ứng mặt hàng gạo của Việt Nam, PGs. Ts. Vũ Thị Minh, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân cho biết, các khâu trong quy trình sản xuất gạo của Việt Nam chịu nhiều chi phí khá cao về giống, đất đai, nguồn nước, phân bón, lao động vận chuyển, xay xát, đánh bóng, bao bì… nhưng phần giá trị thu được lại khá thấp.
Yếu thế về nhiều mặt
Thực tế các DN nông nghiệp Việt Nam đã tham gia chủ động, tích cực vào chuỗi cung ứng gạo toàn cầu nhưng chưa đạt được giá trị như kỳ vọng. Gạo 25% tấm của Việt Nam có xu hướng bán giá thấp hơn 30-40 USD/tấn so với mặt hàng tương tự của Thái Lan. Nếu tiến hành so sánh đối chiếu giữa các khâu trong chuỗi cung ứng gạo toàn cầu của DN nông nghiệp Việt Nam và Thái Lan có thể thấy sự yếu thế nhiều mặt của Việt Nam.
Theo số liệu của Hiệp hội XK gạo Việt Nam, giá trị gia tăng của gạo Việt Nam thường xuyên thấp hơn 10% giá trị gia tăng gạo Thái Lan trong chuỗi cung ứng toàn cầu.
Đối với các mặt hàng nông sản khác như cà phê, chè, cao su, rau quả, hoa quả cũng ở tình trạng tương tự, giá trị gia tăng trong chuỗi cung ứng rất thấp kể cả các mặt hàng Việt Nam có lợi thế so sánh rất cao. Chẳng hạn, cà phê robusta của Việt Nam có xu hướng bán với giá thấp hơn so với chỉ số LIFE.
Xét riêng năm 2013, đơn giá trung bình của chè Việt Nam là 1524 USD/tấn thấp hơn khoảng 40% so với chè của Ấn Độ là 2688 USD/tấn và Kenya là 2799 USD/tấn. Giá trị gia tăng của mặt hàng tôm Việt Nam thông qua chế biến đạt 24,7%, cá ngừ đạt 37,7%, giá trị này ở cá tra chỉ đạt 0,68% và hơn 90% chè XK của Việt Nam ở dạng nguyên liệu.
Hầu hết mặt hàng nông sản có giá trị gia tăng trong chuỗi cung ứng rất thấp
Theo PGs. Ts. Vũ Thị Minh, nếu so sánh về tỷ trọng hàm lượng công nghệ trong hàng nông sản XK của Việt Nam đối với Trung Quốc có thể thấy sau một thập kỷ từ 2000 - 2010, tỷ trọng hàng XK nông sản công nghệ cao của Việt Nam chỉ tăng từ 11,1% lên 14,2% trong khi Trung Quốc trong giai đoạn này tăng từ 21,2% lên 32,2%. Mức độ liên kết trực tiếp và xây dựng quan hệ lâu dài giữa nông dân và các nhà chế Biến và XK chưa phổ biến, trung gian còn khống chế cả về phía nông dân và nhà XK…
Thực tế cho thấy, nhãn Việt Nam XK sang được thị trường Hoa Kỳ và bán với giá cao hơn bán trong nước 4-5 lần nếu thông qua khâu xử lý phóng xạ theo yêu cầu của thị trường Hoa Kỳ. Điều này cho thấy tiềm năng gia nhập chuỗi nông sản toàn cầu hiệu quả nếu đầu tư thỏa đáng vào đổi mới công nghệ.
Những yếu thế của nông sản Việt Nam được PGs.Ts. Vũ Thị Minh cho rằng có nguyên nhân sâu xa từ việc các DN nông nghiệp Việt Nam trong gia nhập chuỗi cung ứng nông sản toàn cầu còn gặp nhiều thách thức. Trước hết là năng lực cạnh tranh hạn chế về giá cả và chất lượng đạt đẳng cấp quốc tế. Thách thức trong việc đầu tư để đổi mới công nghệ về giống đối với các loại cây con có khả năng tạo năng suất cao và rất cao, chất lượng tốt tiêu tốn ít nguồn lực nhưng tạo giá trị lớn. Các DN Việt Nam gặp nhiều thách thức trong việc kết nối giữa các đối tác trong nước với nhau và giữa quá trình sản xuất trong nước với thị trường thế giới.
Gia nhập chuỗi cung ứng
Các DN nông nghiệp Việt Nam chưa xây dựng được hệ thống chuỗi siêu thị để tiêu thụ hàng nông sản trên thị trường toàn cầu cũng như khả năng kết nối với nhau để tối ưu hóa quy trình sản xuất để tạo ra sản phẩm với chất lượng cao nhất. Các nhà quản lý và DN còn khá lúng túng trong xác định phương thức tham gia chuỗi cung ứng nông sản toàn cầu. Về tổ chức cung ứng lượng hàng hóa quy mô lớn, năng suất cao trên cơ sở tích tụ và tập trung lớn về đất đai, vốn đầu tư và áp dụng KHCN mới vào sản xuất, chế biến cũng là thách thức không nhỏ. Hiện tại năng suất chăn nuôi lợn của Việt Nam chỉ bằng 50% của Úc và chỉ bằng 2/3 của Mỹ. Khả năng cung ứng hòa với khối lượng lớn với chất lượng hàng đầu và thương hiệu nông sản uy tín trên thị trường thế giới đòi hỏi có cách tiếp cận phù hợp hơn với chuỗi cung ứng nông sản toàn cầu.
Để tăng cường khả năng tham gia của các DN nông nghiệp Việt Nam vào chuỗi giá trị nông sản toàn cầu cần có giải pháp khuyến khích việc đầu tư vào đổi mới công nghệ, phát triển công nghệ sinh học để tạo được các loại giống cây trồng và vật nuôi mới.
Hình thành cơ chế đặt hàng Nhà nước đối với DN trong việc xây dựng và phát triển thương hiệu nông sản Việt Nam cũng như có thể tư vấn hoặc phối hợp với DN theo cơ chế hợp tác giữa các cơ quan nhà nước với DN để xây dựng cơ chế điều tiết, khống chế giá nông sản trên thị trường thế giới nhằm từng bước đưa Việt Nam trở thành một cường quốc về nông sản và tổ chức tối ưu và hiệu quả các chuỗi nông sản.
Đơn giản hóa các thủ tục hành chính để giảm thiểu chi phí kinh doanh DN tập trung nhiều thời gian và nỗ lực hơn vào gia nhập hiệu quả chuỗi cung ứng toàn cầu, tiếp cận nguồn lực thuận lợi và bình đẳng xây dựng mạng lưới phát triển thương hiệu và năng lực cạnh tranh của DN.
Thu Hường