Mới đây, trong khuôn khổ Hội nghị thường niên Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) lần thứ 47 tại Thuỵ Sỹ (diễn ra từ ngày 17 – 20/1), Việt Nam và WEF ký thỏa thuận hợp tác để đón đầu Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư.
Theo đó, WEF sẽ tập trung hỗ trợ chuyên môn, tìm hiểu những tác động của cuộc các mạng công nghiệp (CMCN) 4.0 đến mô hình phát triển, cơ cấu công nghiệp, tính toàn diện về tăng trưởng và nhiều khía cạnh khác.
Chuyển mình theo xu thế
Thỏa thuận này được kỳ vọng sẽ mang đến những sáng kiến, tạo nên một sự khởi đầu mới cho nền kinh tế Việt Nam. Trước hết, trong những tháng tới, WEF sẽ làm việc với Chính phủ Việt Nam để đánh giá các lĩnh vực quan trọng mà Việt Nam cần phát triển.
CMCN 4.0 được đánh giá nhằm thúc đẩy mạnh hơn kinh tế thế giới chuyển mạnh sang kinh tế tri thức “thông minh”. Các thành tựu mới của khoa học – công nghệ đều được ứng dụng hội tụ để tối ưu hóa quy trình sản xuất, quản lý, tiêu dùng như hạ tầng thông minh, xây dựng thông minh, dây chuyền thông minh, sản phẩm thông minh, quản trị thông minh…
Với Việt Nam, giới chuyên gia cho rằng, để bắt kịp những cơ hội của CMCN 4.0, đòi hỏi cần chuyển đổi cơ cấu ngành công nghiệp theo hướng công nghệ cao; đẩy mạnh đổi mới sáng tạo ở DN; xây dựng nguồn nhân lực có kỹ năng và sáng tạo; hoàn thiện thể chế kinh tế thúc đẩy đổi mới sáng tạo…
Trao đổi với giới DN tại Tp.HCM hôm 18/1, ông Vũ Minh Trí, Tổng giám đốc Microsoft Việt Nam, cho biết: “Nghiên cứu về chuyển đổi Kỹ thuật số của Microsoft Châu Á đã chỉ ra rằng các lãnh đạo DN đã bắt đầu hành động hướng đến nhu cầu cần chuyển đổi kỹ thuật số để xử lý các thách thức và cơ hội của cuộc CMCN 4.0 ở khu vực”.
“Kinh nghiệm từ cuộc cách mạng trước đã chỉ ra rằng các tổ chức thuộc mọi ngành công nghiệp nếu không phát triển đủ nhanh sẽ ít cạnh tranh hoặc thậm chí lỗi thời khi họ phải đối mặt với sự gián đoạn. Chúng tôi kêu gọi các tổ chức thuộc mọi quy mô kỹ thuật số chuyển mình theo xu thế để có thể phù hợp” – ông Trí nhấn mạnh.
![]() |
Việc thế giới mới bắt đầu khởi phát Cách mạng công nghiệp 4.0 là cơ hội tốt để Việt Nam tiến thẳng vào các lĩnh vực công nghệ mới
Nghiên cứu về chuyển đổi Kỹ thuật số của Microsoft Châu Á khảo sát 572 lãnh đạo thuộc khu vực ASEAN cho thấy các lãnh đạo đều hội đủ điều kiện bởi đều tham dự vào các chiến lược kỹ thuật số của DN.
Theo kết quả thăm dò, các nhà lãnh đạo ASEAN đang chỉ ra sự cấp thiết cần nắm bắt cuộc CMCN 4.0, 84% trong số họ tin rằng họ cần chuyển đổi lên DN số để có thể tăng trưởng và 83% đồng thuận rằng có tầm nhìn về dữ liệu mới có thể dẫn dắt dòng doanh thu mới cho tổ chức của họ. Đây là những điểm chủ chốt trong “Nghiên cứu về chuyển đổi Kỹ thuật số của Microsoft Châu Á”.
Gắn với công nghệ cao
Dù phần lớn lãnh đạo các DN nhận thức được nhu cầu cấp thiết của chuyển đổi kỹ thuật số để giải quyết môi trường kinh doanh thay đổi, nghiên cứu vẫn cho thấy rằng hành trình chuyển đổi các tổ chức khu vực ASEAN vẫn ở giai đoạn sơ khai.
Thực tế, chỉ có 31% các lãnh đạo DN có một chiến lược chuyển đổi kỹ thuật số đầy đủ và chỉ 47% đang trong hành trình đưa sáng kiến chuyển đổi kỹ thuật số cụ thể cho các phòng ban được lựa chọn của họ. Khoảng 22% có rất ít hoặc chưa có chiến lược chuyển đổi.
Đơn cử như lĩnh vực ngân hàng, theo đánh giá của hãng tư vấn quản lý toàn cầu McKingsey & Co 2016, tác động của công nghệ số đối với lợi nhuận ròng của ngân hàng có tổng ảnh hưởng về mặt cơ hội vào khoảng 43 – 48%.
Đối với mức độ thách thức, quản lý rủi ro thì tác động thấp hơn, vào khoảng 29 – 36%, trong đó phải kể đến thách thức về cạnh tranh thị phần (10 – 13%), giảm lãi biên (14 – 16%), giảm chi phí, tăng rủi ro hoạt động (5 – 6%).
Không chỉ phát triển ngân hàng số, triển vọng để phát triển “DN số” tại Việt Nam là rất lớn, dựa trên cơ cấu dân số trẻ, có tốc độ tăng trưởng internet khá cao (9%/năm). Tuy nhiên, những rủi ro về mặt công nghệ trong DN Việt Nam luôn là thách thức lớn.
Ông Vũ Minh Trí cho rằng yếu tố chủ chốt để chuyển đổi “DN số” trước hết là gắn kết khách hàng: Người tiêu dùng dần thông thái hơn nhờ truy cập dữ liệu để hiểu biết thêm về dịch vụ và sản phẩm. Để tồn tại, các tổ chức cần đưa ra những trải nghiệm mới, cá nhân hóa và nhập vai và đáng tin cậy về bảo mật.
Thứ hai là trao quyền cho nhân viên. Các DN có thể trao quyền cho nhân viên và giúp họ làm việc tốt hơn nhờ sức mạnh của di động, cho phép nhân viên cộng tác từ bất cứ nơi nào, trên thiết bị bất kỳ và truy cập vào những ứng dụng và dữ liệu họ cần, dù vẫn đảm bảo giảm thiểu rủi ro về bảo mật.
Thứ ba là tối ưu hóa vận hành. Các xu hướng công nghệ đang đẩy nhanh các tiềm năng cho các DN để tối ưu hóa hoạt động. Điều này được thực hiện nhờ thu thập dữ liệu qua các thiết bị đầu cuối được phân tán rộng, khắc họa những hiểu biết thông qua phân tích tiên tiến, và sau đó áp dụng những bài học này để giới thiệu những cải tiến dựa trên cơ sở thu thập liên tục.
Thế Vinh