Đây là ý kiến vừa được Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) gửi Bộ Tài chính về việc góp ý hồ sơ đề nghị xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung Luật Thuế bảo vệ môi trường (BVMT). Trong đó có nội dung Bộ Tài chính đề xuất tăng khung thuế BVMT đối với xăng dầu.
Tác động tiêu cực tới toàn bộ nền kinh tế
Trước đó, Bộ Tài chính đề xuất tăng khung thuế BVMT đối với một số mặt hàng xăng, dầu lên gấp 2 - 3 lần so với khung hiện hành.
Cụ thể, đối với xăng (trừ xăng etanol), mức thuế dự kiến sẽ tăng từ 1.000 - 4.000 đồng/lít lên 3.000 - 8.000 đồng/lít. Riêng xăng E5 và E10 cũng được đề xuất áp mức 2.500 - 7.200 đồng/lít.
VCCI cho rằng việc tăng thuế bảo vệ môi trường đối với xăng dầu sẽ tác động lớn tới nền kinh tế
Đối với dầu diesel, mức thuế dự kiến áp dụng là 3.000 - 6.000 đồng/lít thay vì 500 - 2.000 đồng như hiện hành. Dầu mazut 900 - 4.000 đồng/lít, tăng gấp ba lần hiện nay.
Theo Bộ Tài chính, việc tăng thuế đối với xăng dầu nhằm bù vào khoản hụt thu từ các hiệp định thương mại nhưng VCCI cho rằng điều này sẽ tác động tiêu cực đến toàn bộ nền kinh tế Việt Nam.
Cụ thể, VCCI cho rằng, xăng dầu là mặt hàng thiết yếu, do đó, việc tăng giá đối với xăng dầu không làm ảnh hưởng nhiều đến tổng lượng tiêu thụ của người dân. Nói cách khác, nếu mục tiêu chính sách là để hạn chế tác động môi trường thông qua việc hạn chế tiêu thụ xăng dầu, việc tăng thuế không mang lại hiệu quả đáng kể.
Như vậy, khả năng điều chỉnh hành vi của người dân xuất phát từ tác động của tăng thuế đối với xăng dầu là tương đối thấp trong khi chi phí xã hội phải bỏ ra rất lớn. So với nhiều công cụ chính sách khác để cắt giảm phát thải khí CO2 như: tuyên truyền vận động, đầu tư cho giao thông công cộng, đường sắt, đổi mới công nghệ của thiết bị điện, trồng rừng, phát điện từ rác thải, điện gió,… thì chính sách thuế đối với xăng dầu tốn kém hơn trong khi hiệu quả thấp hơn.
"Tóm lại, xét về cả nhu cầu cắt giảm phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính lẫn tính khả thi của việc cắt giảm phát thải dựa trên chính sách tăng thuế đối với xăng dầu đều không đáp ứng", VCCI khẳng định.
Đáng chú ý, việc tăng thuế đối với xăng dầu nhằm bù vào khoản hụt thu từ các hiệp định thương mại sẽ tác động tiêu cực đến toàn bộ nền kinh tế Việt Nam. Việc cắt giảm thuế quan từ các hiệp định thương mại có thể mang lại lợi thế cho các doanh nghiệp Việt Nam nhưng cũng mang lại lợi thế tương tự cho các doanh nghiệp ở quốc gia khác. Nếu tăng thuế đối với xăng dầu để bù lại, vô hình chung, chính sách này khiến các doanh nghiệp Việt Nam mất lợi thế cạnh tranh trước các đối thủ nước ngoài.
Nhiều ngành sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng
Ông Đậu Anh Tuấn, Trưởng Ban Pháp chế (VCCI), cho biết thêm, xăng dầu là nguyên liệu đầu vào quan trọng của nền kinh tế. Các phương tiện giao thông vận tải hàng hóa, máy nông nghiệp, tàu cá,… đều sử dụng rất nhiều xăng dầu. Do đó, nếu tăng thuế đối với xăng dầu, những ngành chịu thiệt hại nặng nhất là vận tải, nông nghiệp và thủy hải sản.
Đối với ngành vận tải, theo thông tin từ Cục Quản lý Giá, tỷ trọng chi phí nhiên liệu chiếm từ 25% - 35% đối với xe chạy xăng, từ 35% - 45% đối với xe chạy dầu, 39,5% đối với hàng không.
Đối với ngành thủy hải sản, chi phí nhiên liệu chiếm từ 33% - 59% cơ cấu giá thành. Còn ngành nông nghiệp, chi phí vận chuyển hàng hóa cũng thường chiếm từ 35% - 40% cơ cấu giá thành. Đây đều là những ngành kinh tế có nhiều đối tượng yếu thế và đang trong giai đoạn hiện đại hóa, chuyển từ thủ công sang cơ giới. Nếu chi phí xăng dầu tăng có thể làm giảm động lực chuyển đổi cơ giới hóa của nông dân.
Các chi phí đầu vào và nghĩa vụ tài chính của doanh nghiệp đang có xu hướng tăng mạnh trong thời gian qua. Giá xăng dầu thế giới đang tăng và có xu hướng tiếp tục tăng trong thời gian tới. Chi phí sử dụng đường bộ của doanh nghiệp vận tải cũng đang tăng do nhiều dự án BOT đã và sẽ đi vào khai thác trong thời gian này. Vừa qua, chi phí sử dụng hạ tầng cảng biển tại Hải Phòng cũng khiến việc vận chuyển hàng hóa gặp khó khăn. Những chi phí bảo hiểm xã hội cho người lao động cũng đang trong lộ trình tăng và đây là gánh nặng rất lớn cho các doanh nghiệp.
Với một số tác động tiêu cực được liệt kê như trên, VCCI nhận thấy việc tăng thuế đối với xăng dầu cần được đánh giá tác động một cách bài bản và khách quan đối với toàn bộ nền kinh tế và phúc lợi xã hội của đất nước. Do đây mới chỉ nâng khung thuế, chưa trực tiếp tăng mức thuế, nên cần có đánh giá dựa trên ba giả thuyết về mức thuế suất: mức sàn, mức trần và mức trung bình.
Ngoài ra, VCCI cũng cho rằng, không nên thay thế thuế nhập khẩu bằng thuế BVMT đối với xăng dầu. Bởi, việc cắt giảm thuế nhập khẩu đối với xăng dầu theo các cam kết quốc tế có thể làm giảm nguồn thu ngân sách, nhưng không nên bù bằng cách tăng thuế BVMT đối với xăng dầu.
Trước đây, kết cấu thu ngân sách của Việt Nam phụ thuộc quá nhiều vào các nguồn thu không bền vững như: khai thác tài nguyên, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng (VAT), tiền bán đất. Trong khi đó, các nguồn thu bền vững hơn như: thuế thu nhập, thuế tài sản lại đóng góp không đáng kể.
Theo báo cáo của Bộ Tài chính, năm 2016, mức đóng góp của thuế BVMT trong tổng thu ngân sách là 4,1%, với 99% trong số đó đến từ xăng dầu. Nếu cộng cả thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế VAT, mức đóng góp của ngành xăng dầu vào khoảng 9,8% tổng thu ngân sách. Nếu mức thuế mới kịch khung được áp dụng và loại bỏ thuế nhập khẩu theo lộ trình, mức đóng góp sẽ khoảng 15% tổng thu ngân sách. Đây là tỷ lệ rất lớn và không có lợi cho kết cấu ngân sách quốc gia.
Do đó, xét về dài hạn, việc nới khung thuế BVMT đối với xăng dầu nhằm bảo đảm thu ngân sách sẽ là giải pháp lợi bất cập hại và làm giảm áp lực chuyển đổi hệ thống tài chính quốc gia theo hướng bền vững hơn.
Trước đó, Thủ tướng cũng đã nói chi tiêu ngân sách phải công khai rõ ràng vì là tiền của dân. Thuế môi trường cũng vậy, không thể thu nhưng cuối cùng không chi cho môi trường, điều này không đúng mục đích mà chúng ta nói đến.
Lê Thúy