Theo con số mới được Tổng cục Thống kê công bố, chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tại thời điểm 30/9/2019 tăng 17,2% so với cùng thời điểm năm trước (cùng thời điểm năm 2018 tăng 13,8%). Tỷ lệ tồn kho toàn ngành chế biến, chế tạo bình quân 9 tháng năm 2019 đạt 72,1%, tỷ lệ tồn kho ở mức an toàn là khoảng 65% (cùng kỳ năm trước là 63,8%).
Vượt ngưỡng an toàn
Ông Phạm Đình Thúy, Vụ trưởng Vụ Thống kê Công nghiệp, nhận định tình hình tồn kho của ngành chế biến, chế tạo cao hơn năm ngoái, vượt ngưỡng an toàn. Tuy nhiên, đại diện Tổng cục Thống kê cũng khẳng định điều này không đáng lo ngại, chỉ mang tính kỹ thuật và thời điểm.
Ông Thúy cho biết tồn kho chủ yếu nằm ở 3 nhóm chính. Cụ thể, sản xuất xăng dầu có tỷ lệ tồn kho tăng cao 55,7% so với năm trước, chủ yếu do sản xuất chưa khai thác được thị trường trong nước, chất lượng xăng dầu trong nước không thua kém xăng dầu nhập khẩu nhưng do chuỗi giá trị cung ứng chưa tốt, chưa tìm được tiếng nói chung với nhà phân phối.
Để giải quyết câu chuyện tồn kho ngành xăng dầu, ông Thúy cho rằng cần sự vào cuộc của Nhà nước và doanh nghiệp (DN), nhằm tháo gỡ nút thắt ngành sản xuất xăng dầu.
Ngành thứ hai có tồn kho cao là sản xuất ô tô, xe máy. Lý do là thuế nhập khẩu ô tô xe máy từ các nước ASEAN về 0% nên đang có xu hướng nhập khẩu ồ ạt ô tô và xe máy, trong khi trong nước mới có thêm nhà máy sản xuất ô tô VinFast có quy mô lớn. Công ty này mới sản xuất tháng 7 và đang thăm dò thị trường. VinFast hoạt động tốt sẽ đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu (XK).
Ngành thứ ba tồn kho cao là sản xuất kim loại, chủ yếu của công ty TNHH Hưng nghiệp Formosa. Tồn kho của công ty này mang tính kỹ thuật, Formosa giữ lại phôi thép để sản xuất nên tồn kho cao, hoàn toàn là mang tính chiến lược và kỹ thuật của sản xuất. Vì vậy, một lần nữa, ông Thúy khẳng định tồn kho cao không đáng lo ngại.
Tuy vậy, tại báo cáo xu hướng sản xuất kinh doanh ngành công nghiệp chế biến, chế tạo quý III, dự báo quý IV/2019 cũng cho thấy vẫn còn 18,3% số DN ngành này đánh giá gặp khó khăn trong quý III, 12,1% số DN dự báo khó khăn hơn trong quý IV.
Trong các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh của DN quý III/2019, có 59% số DN cho rằng khả năng cạnh tranh của hàng hóa trong nước là yếu tố ảnh hưởng lớn nhất đến hoạt động sản xuất kinh doanh của DN; 45,2% số DN cho rằng do nhu cầu thị trường trong nước thấp; 24,7% số DN cho rằng tính cạnh tranh của hàng nhập khẩu là yếu tố quan trọng...
Trong 9 tháng năm nay, ngành chế biến chế tạo cũng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn nhất với số vốn đăng ký của các dự án được cấp phép mới đạt 8.139,3 triệu USD, chiếm 74,2% tổng vốn đăng ký cấp mới. Do vậy, lo ngại cạnh tranh trên “sân nhà” gia tăng cũng là điều dễ hiểu.
Vẫn còn 12,1% số DN chế biến, chế tạo dự báo khó khăn hơn trong quý IV/2019 |
Cạnh tranh kém
Ông Nguyễn Chỉ Sáng, Tổng Thư ký Hiệp hội DN cơ khí Việt Nam (VAMI), chia sẻ các DN cơ khí trong nước đang phải chịu sự cạnh tranh rất khốc liệt và nhiều khi không bình đẳng từ các công ty nước ngoài, đặc biệt từ Trung Quốc. DN Việt đi sau trong hội nhập quốc tế nên để tham gia được vào chuỗi cung toàn cầu là rất khó.
Một số cơ chế, chính sách tạo thị trường cho DN cơ khí trong nước từ các dự án mua sắm, đầu tư từ ngân sách nhưng ít được thực hiện trên thực tế do nhận thức của chủ dự án và chế tài thực hiện các cơ chế chính sách chưa chặt chẽ. Luật Đấu thầu chưa chặt chẽ cộng với việc áp dụng cứng nhắc của chủ đầu tư không hạn chế được việc thắng thầu nhờ giá rẻ.
Ông Sáng ví dụ chương trình nội địa hóa thiết bị nhiệt điện, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định 1791 để nội địa hóa các thiết bị nhà máy nhiệt điện nhưng các chủ đầu tư không thực hiện nên các DN cơ khí trong nước bị loại ra khỏi chương trình đầu tư hàng trăm tỷ USD xây dựng nhà máy nhiệt điện.
“Chúng ta vẫn chưa có các biện pháp phòng vệ thương mại để bảo vệ thị trường nội địa cho ngành cơ khí. Các chính sách về thuế XK, thuế nhập khẩu trong một thời gian dài chưa thực sự tạo điều kiện thuận lợi trong việc bảo vệ thị trường trong nước và thúc đẩy XK đối với các sản phẩm cơ khí của Việt Nam”, ông Sáng nhận định.
Tổng Thư ký VAMI kiến nghị: với các công trình, dự án sử dụng vốn đầu tư công cần tách phần công việc trong nước có thể thực hiện để đấu thầu trong nước. Với các gói thầu trong nước chưa hoàn toàn có khả năng thực hiện, cho phép đấu thầu trong nước với điều kiện nhà thầu trong nước được liên doanh với nhà thầu nước ngoài có đủ năng lực để làm chủ công nghệ.
Bên cạnh đó, ông Lương Văn Khôi, Phó Giám đốc Trung tâm Kinh tế và dự báo (Bộ KH&ĐT), đánh giá khả năng cạnh tranh của các tiểu ngành chế biến, chế tạo còn nhiều điều đáng lưu ý. Điển hình với ngành điện tử, tiểu ngành công nghiệp chế biến, chế tạo có đóng góp doanh thu và giá trị gia tăng cao nhất, XK ròng dương lớn nhất nhưng lại bị chi phối bởi DN có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và chủ yếu cạnh tranh ở công đoạn lắp ráp sản phẩm cuối cùng.
Da giày, dệt may chủ yếu tập trung vào công đoạn sản xuất sản phẩm cuối cùng (theo đơn đặt hàng của các DN nước ngoài) trong chuỗi giá trị. Tiểu ngành cơ khí, thiết bị điện, sản xuất và thiết bị máy móc khác, thiết bị y tế chính xác và lắp đặt máy móc có khả năng cạnh tranh thấp...
Theo Bộ Công Thương, nội lực và năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp còn yếu, thể hiện qua số lượng DN công nghiệp rất ít (cả nước chỉ có gần 80.000 DN trong các ngành công nghiệp chế biến chế tạo), khả năng tài chính và công nghệ hạn chế. DN công nghiệp của Việt Nam chưa làm chủ được các công nghệ cốt lõi, chủ yếu tham gia vào các công đoạn có hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng thấp, chưa phát triển được thương hiệu.
Bộ Công Thương cũng thừa nhận một phần là do chính sách phát triển công nghiệp thời gian qua chất lượng thấp, dàn trải, không ổn định. Việc bố trí các nguồn lực để triển khai các chính sách thiếu thống nhất, chưa đủ mạnh, chưa phù hợp với thực trạng công nghiệp và trình độ DN Việt Nam (hỗ trợ chưa đúng mức).
Do vậy, Bộ Công Thương cho rằng thời gian tới cần xác định phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo là trung tâm; phát triển công nghiệp chế tạo thông minh là bước đột phá. Đồng thời, bảo vệ và mở rộng thị trường trong nước, khai thác tối đa thị trường XK từ các hiệp định thương mại tự do đã ký kết cho các sản phẩm công nghiệp trọng điểm.
Lê Thúy
Ông Nguyễn Bích Lâm - Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp theo hướng tăng tỷ trọng ngành chế biến, chế tạo, nhất là công nghiệp chế biến sâu, chế biến sản phẩm nông nghiệp, công nghiệp phụ trợ, sản xuất hàng tiêu dùng. Đồng thời, giảm tỷ trọng gia công, lắp ráp với sản phẩm được sản xuất ở Việt Nam. Bà Trương Thị Chí Bình - Tổng Thư ký Hiệp hội Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam Trong ngành điện tử, thị trường khá lớn nhưng để đầu tư lại rất rủi ro vì chi phí đầu tư lớn nhưng phải cạnh tranh gay gắt với sản phẩm nhập khẩu. Vì vậy, DN đầu tư vào lĩnh vực này rất cần sự hỗ trợ, đầu tư mồi của Nhà nước. Đồng thời, Nhà nước phải làm vai trung gian giữa các tập đoàn đa quốc gia với nhà sản xuất trong việc đảm bảo đầu ra. Ông Ngô Minh Khải - Giám đốc công ty TNHH MTV Cơ điện và vật liệu nổ 31 Nhà nước cần xây dựng các hàng rào kỹ thuật để bảo hộ “mềm” cho các DN cơ khí chế tạo trong nước phát triển, ngăn chặn đưa công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường vào Việt Nam; tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các DN trong nước và các DN đầu tư nước ngoài. |