Đều là những đặc sản lâu nay vốn đã có tiếng và được người tiêu dùng trong nước ưa chuộng, song ông Tạ Văn Long, Phó Chủ tịch tỉnh Yên Bái, cho biết các sản phẩm tiêu biểu của Yên Bái như cây Sơn tra, gạo nếp Tú Lệ… còn khó khăn trong tiêu thụ, việc xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm này đã được tỉnh chú trọng nhưng việc giới thiệu quảng bá sản phẩm đến đông đảo người tiêu thụ còn hạn chế, giá trị sản phẩm còn chưa cao.
Chưa có thương hiệu
Hay đối với cam Cao Phong (Hòa Bình), dù đã được cấp chứng nhận chỉ dẫn địa lý, nhưng theo đánh giá, việc xuất khẩu trái cây này vẫn còn ở thì tương lai. Để đưa sản phẩm cam bước vào các siêu thị, hướng tới xuất khẩu, tỉnh Hòa Bình đang từng bước xây dựng Bộ tiêu chuẩn canh tác thống nhất cho cam Cao Phong như Tiêu chuẩn nông sản chất lượng cao của Việt Nam (VietGap) hoặc xa hơn nữa là Tiêu chuẩn thực hành nông nghiệp tốt toàn cầu (GlobalGap).
Thực tế trên không chỉ diễn ra với các đặc sản của Yên Bái, Hòa Bình, mà nhiều sản phẩm đặc sản vùng miền khác cũng đang gặp phải tình cảnh tương tự. Do chưa xây dựng được thương hiệu vững chắc nên công tác xúc tiến tiêu thụ tại thị trường trong và ngoài nước còn gặp nhiều khó khăn.
Theo bà Nguyễn Thị Minh Thúy, đại diện Cục Xúc tiến Thương mại (Bộ Công thương), các đặc sản vùng miền chưa tiếp cận được phương thức và các kênh phân phối hiện đại để đến với thị trường trong nước và xuất khẩu, còn thiếu tính liên kết mang tính hệ thống trong việc hoàn thiện chất lượng sản phẩm, thiếu sự đa dạng trong thiết kế sản phẩm, đặc biệt là sự liên kết khu vực để xây dựng hệ thống phân phối tại thị trường trong nước cũng như quốc tế.
Bên cạnh đó, theo điều tra sơ bộ của Cục Sở hữu trí tuệ, trên toàn quốc có trên 800 sản phẩm nông – lâm – thủy sản có uy tín phân bố trên 720 vùng khác nhau. Tuy vậy, mới chỉ có 43 Chỉ dẫn địa lý và khoảng 140 nhãn hiệu chứng nhận, nhãn hiệu tập thể được đăng ký xác lập quyền và được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Chỉ một số ít trong đó được tiến hành đăng ký bảo hộ ở nước ngoài. Do vậy, sản phẩm của Việt Nam dễ bị đánh cắp thương hiệu tại thị trường quốc tế.
Nguyên nhân được ông Nguyễn Ngọc Tuấn, Phó Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội, lí giải là do các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh chưa chú trọng khâu phát triển sản phẩm, dẫn đến hiệu quả, kinh doanh và sức cạnh tranh của sản phẩm thấp; việc tiêu thụ, đặc biệt là xuất khẩu sản phẩm gặp khó khăn; thậm chí, một số sản phẩm tiêu biểu, đặc sản của địa phương đang dần bị mai một.
Ngoài ra, trình độ công nghệ chế biến kém cũng đang là nguyên nhân cản đường đặc sản xuất khẩu. Ông Trương Quang Hoài Nam, Phó Chủ tịch UBND thành phố Cần Thơ, cho biết Cần Thơ có đặc sản quả dâu Hạ Châu với diện tích trồng khoảng 600 ha, sản lượng đạt khoảng 7.000 tấn/năm. Dâu Hạ Châu đã được xuất khẩu sang Campuchia, Thái Lan và được tiêu thụ rộng rãi tại một số tỉnh miền Tây Nam bộ. Tuy nhiên, để mang được dâu Hạ Châu đi quảng bá, giới thiệu, mở rộng thị trường mà vẫn giữ được chất lượng sản phẩm là rất khó bởi chỉ sau một tuần thu hái dâu sẽ bị biến màu.
![]() |
Còn quá ít hoa quả có thương hiệu quốc tế
Xuất khẩu “gia công”
Những yếu kém trên đã khiến các sản phẩm đặc sản của Việt Nam vẫn quanh quẩn tiêu thụ tại thị trường trong nước, có chăng xuất khẩu ra nước ngoài là nhờ các DN ngoại.
Như với sản phẩm nước mắm Phú Quốc. Năm 2002, tập đoàn đa quốc gia Unilever vào cuộc với việc đầu tư nhà máy đóng chai nước mắm ngay tại huyện đảo Phú Quốc, công suất 6 triệu lít/năm. Chỉ sau một năm, hãng này đã xuất được 7.500 lít nước mắm sang thị trường Úc. Điều mà trước đó, không có DN nội nào làm được.
Hay gần đây, cà phê Cầu Đất (thành phố Đà Lạt) cũng được Starbucks chào bán trên toàn thế giới. Tính đến năm 2014, hãng này có hơn 21.500 cửa hàng tại 56 quốc gia. Và cà phê bán tại hệ thống khổng lồ của họ chỉ được chọn từ 7 quốc gia là Indonesia, Kenya, Rwanda, Brazil, Colombia, Guatemala và Việt Nam.
Hạt cà phê Đà Lạt được vinh danh trên thị trường thế giới rõ ràng đã làm tăng thêm uy tín cho hạt cà phê Việt nói chung. Tuy nhiên, một lần nữa, các doanh nghiệp ngoại lại tận dụng hiệu quả nguồn nguyên liệu đặc sản của Việt Nam.
Thậm chí, theo khảo sát thực tế, nhiều mặt hàng Việt còn thâm nhập vào các nước thông qua DN bản địa bằng con đường gia công, xuất khẩu qua “cái áo của người khác” nên ít sản phẩm có thương hiệu “made in Vietnam”.
Theo thống kê, Việt Nam có đến 90% lượng hàng nông sản Việt Nam xuất khẩu phải mang nhãn hiệu của nước ngoài vì DN trong nước chủ yếu chỉ xuất sản phẩm ở dạng thô.
Bộ trưởng Bộ Công Thương Vũ Huy Hoàng từng chia sẻ, trong một lần đi thăm và khai trương “Tuần hàng Việt” tại Đức từng đặt vấn đề tạo điều kiện để hàng Việt được phân phối nhiều hơn trong một hệ thống siêu thị lớn tại đây.
Tuy nhiên, một phó chủ tịch tập đoàn lớn cho biết, nếu chỉ đưa hàng Việt vào siêu thị ở nước ngoài thôi thì rất đơn giản, song sẽ khó bán vì khách hàng không có sự nhận biết về các loại hàng hóa này do không có thương hiệu.
Dưới góc độ DN, ông Lê Quốc Vinh, Tổng giám đốc Tập đoàn Le Invest, cho rằng sở dĩ đặc sản Việt Nam chưa tạo được uy tín sâu rộng là do nhiều nguyên nhân như hàng kém chất lượng làm giảm uy tín thương hiệu, chưa đầu tư cho xây dựng thương hiệu, chủ yếu bán sản phẩm thô để nước ngoài gắn thương hiệu của họ và xuất khẩu…
Một vấn đề nữa của sản phẩm đặc sản Việt Nam là nhiều sản phẩm không phù hợp với văn hóa của người bản địa nên sẽ kén khách hàng, hoặc chỉ có thể tìm những quốc gia có đông người Việt sinh sống.
Lê Thúy
Ông Nguyễn Cẩm Tú - Thứ trưởng Bộ Công Thương Để sản phẩm đặc sản vùng miền có thể cạnh tranh và đứng vững trên thị trường cần có một quy trình đảm bảo chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm. Các địa phương cần phải làm cho người tiêu dùng trên thị trường cảm nhận được sự khác biệt về công dụng, đặc điểm… của sản phẩm. Cần có sự bắt tay, liên kết giữa Nhà nước – doanh nghiệp – người sản xuất nhằm xây dựng và quảng bá thương hiệu sản phẩm. Theo tôi, cách xúc tiến tốt nhất là tập trung vào 4 kênh: phân phối nội địa; hệ thống phân phối hiện đại; xuất khẩu và xuất khẩu tại chỗ. Ông Nguyễn Tri Phương Đông - Chuyên gia thiết kế truyền thông Việt Nam có truyền thống nông nghiệp, nhiều đặc sản vùng miền nổi tiếng gắn với tên tuổi địa phương. Để nâng cao chất lượng sản phẩm, giá trị gia tăng thông qua đó nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm đặc sản cần tiếp tục liên kết chặt chẽ giữa các địa phương. Không chỉ liên kết đơn thuần dựa trên cơ sở địa phương sẵn có mà cần mở rộng về mặt không gian, tham gia vào sự phân công lao động nhằm tạo ra sản phẩm có chất lượng tốt đủ sức để chiếm lĩnh thị trường trong nước và xuất khẩu ra nước ngoài. Ông Nguyễn Ngọc Hòa - Phó giám đốc Sở Công Thương, Tp.HCM Hầu hết DN Việt xuất hàng qua châu Âu, Mỹ thường chỉ bán ở các chợ nhỏ lẻ của người Việt, cùng lắm là ở chợ dành cho người châu Á. Nguyên nhân là do hàng Việt khó tiếp cận được thị trường bản địa vì không hợp với khẩu vị của họ. Ví dụ, DN Việt xuất khẩu cá khô sang thị trường Mỹ thì chỉ bán được cho người Việt tại đây chứ người Mỹ không quan tâm. Do đó, các DN khi xuất khẩu phải có sự nghiên cứu trước thị trường và có phương thức quảng bá mặt hàng rộng rãi. |