Hiện tại, năng lực sản xuất của ngành thép Việt Nam với thép dài là 12,6 triệu tấn/năm, cán nguội sản phẩm dẹt là 5,75 triệu tấn/năm, ống thép hàn là 3 triệu tấn/năm, tôn mạ kim loại và sơn phủ màu là 4,95 triệu tấn/năm. Sản lượng sản xuất ước tính năm 2016 đạt 8,25 triệu tấn thép dài, 3,5 triệu tấn thép cuộn nguội (CRC), 1,75 triệu tấn ống thép và 3,7 triệu tấn tôn mạ.
Thiếu thép cuộn cán nóng
Ts. Nguyễn Văn Sưa, Phó Chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam, cho biết ngành công nghiệp thép Việt Nam vẫn chưa vận hành tối đa công suất. Trong khi đó, sản lượng thép nhập khẩu vẫn tăng rất mạnh, đặc biệt là phôi thép và sản phẩm cuối cùng.
Chỉ tính riêng trong 9 tháng đầu năm 2016, nhập khẩu phôi thép ở mức 1 triệu tấn và sản phẩm thép ở mức 13 triệu tấn (trong đó sản phẩm dẹt là 4 triệu tấn, tôn mạ 1,5 triệu tấn, 0,5 triệu tấn thép không gỉ và 6 triệu tấn thép hợp kim).
Ông Sưa cũng đưa ra con số dự báo cho tổng lượng tiêu thụ thép trong năm 2016 sẽ là 20,5 triệu tấn (so với 18,25 triệu tấn năm 2015). Như vậy, nếu theo ước tính này, sản lượng thép tính theo đầu người của Việt Nam sẽ tăng từ 200kg/người năm 2015 lên 220kg/người.
Thông qua phân tích những số liệu chi tiết, giới chuyên gia cho rằng, hiện nay, sản xuất trong nước đã đáp ứng đủ nhu cầu thép xây dựng, thép cán nguội, ống thép và tôn mạ kim loại và sơn phủ màu.
Ngoài ra, các sản phẩm thép xuất khẩu chủ lực bao gồm tôn mạ, ống thép và thép cán nguội. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn phải nhập khẩu rất nhiều thép, chủ yếu là những sản phẩm trong nước chưa cung ứng được như thép cuộn cán nóng (HRC), thép chế tạo…
![]() |
Việt Nam vẫn phải nhập khẩu 9 triệu tấn thép cuộn cán nóng (HRC) để phục vụ cho sản xuất
Theo giới chuyên gia, hồi năm ngoái, Việt Nam sản xuất được 15 triệu tấn thép thành phẩm. Cùng với đó, 4 ngành hàng là HRC, CRC, ống thép, tôn mạ, ngoài việc đáp ứng nhu cầu trong nước, đã có sản lượng xuất khẩu khá tốt. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn phải nhập khẩu 9 triệu tấn HRC để phục vụ cho sản xuất.
Như vậy, ngành thép Việt Nam vẫn cần tiếp tục đầu tư đồng bộ, đặc biệt là đầu tư vào những nguyên liệu và bán thành phẩm hiện chưa sản xuất được để phục vụ cho các khâu sản xuất tiếp theo trong chuỗi giá trị.
Bên cạnh đó, khi Việt Nam tham gia các hiệp định thương mại tự do kiểu mới (FTAs), xuất xứ hàng hóa rất quan trọng trong việc xác định các mặt hàng có được hưởng ưu đãi thuế suất hay không, do vậy, nên hạn chế nhập khẩu các sản phẩm từ Trung Quốc.
Cần doanh nghiệp thép mạnh
Ở một diễn biến khác, trong thông tin mới được Bộ Công Thương phát ra ngày 15/11 có cho biết trong quá trình rà soát Quy hoạch cho thấy, đến năm 2020, cả nước sẽ thiếu hụt khoảng 15 triệu tấn thép thô, đến năm 2025, thiếu hụt sẽ vượt mức 20 triệu tấn thép thô, nhập siêu ngành thép sẽ ngày càng trầm trọng hơn.
Bộ này cho rằng trong 5 năm tới, Việt Nam cần bổ sung thêm khoảng 6 triệu tấn công suất thép phôi xây dựng có quy mô lớn, năng lực cạnh tranh cao để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng trong nước.
Không những vậy, vấn đề còn nằm ở thép cuộn cán nóng, như thông tin đăng trên trang web của Bộ Công Thương, Việt Nam mới chỉ có duy nhất dự án Liên hợp thép Formosa Hà Tĩnh với công suất 7,5 triệu tấn, sử dụng lò cao dung tích 4.530m3 đã được đầu tư xây dựng.
Khi đi vào hoạt động sẽ là khu liên hợp thép đầu tiên tại Việt Nam sản xuất được các sản phẩm thép tấm cán nóng sẽ làm thay đổi diện mạo ngành thép Việt Nam. Tuy nhiên, sự cố tháng 5/2014 và sự cố về môi trường vừa qua khiến dự án đang bị chậm tiến độ.
Ngoài Dự án Formosa, trong thời gian tới, ngành thép Việt Nam không có dự án sản xuất thép tấm cán nóng được triển khai, nhập siêu ngành thép đối với chủng loại này sẽ tiếp tục gia tăng.
Bàn về chuyện này, giới đầu tư đặt vấn đề thị trường HRC đang bị bỏ ngỏ. Liệu các doanh nghiệp thép nội địa có phát triển mảng này và có tiềm năng cạnh tranh HRC với thép Trung Quốc được hay không?
Theo Ts. Nguyễn Văn Sưa, tại Việt Nam, đang có doanh nghiệp Formosa với nguồn cung cấp HRC 6 triệu tấn/năm. Con số này là vẫn thiếu so với nhu cầu của Việt Nam. Hiện tại, Việt Nam nhập HRC từ Trung Quốc đến 80% nhu cầu trong nước.
Vì vậy, Việt Nam sẽ cần thêm những nhà đầu tư trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, do quy mô doanh nghiệp Việt còn nhỏ, hạn chế về đầu tư công nghệ, khả năng cạnh tranh thấp trong khi khả năng cạnh tranh là vũ khí quyết định sự sống còn của các doanh nghiệp thép trong môi trường cạnh tranh gay gắt với sản phẩm nhập khẩu này.
Do đó, Việt Nam cần gây dựng đội ngũ doanh nghiệp thép quy mô tương đối lớn để có đủ năng lực tài chính, công nghệ để nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm thép Việt.
Thế Vinh