Sự tham gia mạnh mẽ hơn của các tập đoàn điện tử lớn trên thế giới vào thị trường Việt Nam cũng giúp bổ sung nguồn vốn, tạo việc làm và cơ hội học hỏi, hợp tác, tham gia vào chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu của các DNVVN trong sản xuất sản phẩm điện tử và hỗ trợ ngành điện tử. Tuy vậy, cũng còn rất nhiều thách thức.
Áp lực cạnh tranh lớn hơn
Bà Phùng Thị Lan Phương, Trưởng ban FTA trung tâm WTO và Hội nhập, VCCI, cho biết: “Trong TPP hay EVFTA, các sản phẩm điện tử có mức cắt giảm thuế quan mạnh và nhanh. Tuy vậy, phải xem xét là việc cắt giảm thuế quan có lợi cho doanh nghiệp Việt Nam hay không”.
Trên thực tế, thuế suất thuế NK ưu đãi (MFN) trung bình của Singapore, Nhật Bản, Canada, Peru và Hoa Kì đối với mặt hàng điện tử của Việt Nam nói chung chỉ dao động 0-1,6%. Thuế MFN trung bình đối với các sản phẩm điện tử của EU là 2,8%.
Kể cả khi tham gia TPP hay EVFTA, phải xóa bỏ thuế xuống bằng 0% cũng không đáng kể gì với họ, trong khi thuế MFN trung bình đối với các sản phẩm điện tử của Việt Nam là 7,9%.
Việc xóa bỏ thuế cho các quốc gia nổi tiếng về mặt hàng điện tử như Nhật Bản, Hoa Kì… sẽ tác động rất lớn đến thị phần của các sản phẩm điện tử trong nước cũng như các doanh nghiệp nội. Còn Nhà nước sẽ mất đi một nguồn ngân sách rất lớn từ thuế nhập khẩu.
Ngoài ra, việc xóa bỏ thuế NK các sản phẩm CNTT vào Việt Nam sẽ tạo ra áp lực cạnh tranh lớn hơn cho các doanh nghiệp hỗ trợ ngành điện tử trong nước. Dư địa sử dụng các công cụ thuế quan nhằm bảo hộ công nghiệp hỗ trợ điện tử trong nước sẽ liên tục bị thu hẹp.
Bên cạnh khó khăn cạnh tranh từ việc xóa bỏ thuế quan, các doanh nghiệp nội cũng đang phải đối mặt với nhiều vướng mắc từ các vấn đề “phi thuế quan” để được hưởng mức ưu đãi thuế XK như đảm bảo quy tắc xuất xứ.
Từ năm 1996 đến nay, Việt Nam đã có 9 FTAs có hiệu lực. Hiện tại, Việt Nam đang đàm phán và chuẩn bị kí kết thêm 7 FTAs nữa, trong đó có hai siêu Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới là TPP và EVFTA. Tuy vậy, tỷ lệ tận dụng ưu đãi thuế quan từ các FTA thấp, chỉ đạt 30% (trừ hiệp định thương mại Việt Nam- Hàn Quốc).
TPP yêu cầu hàng hóa phải có xuất xứ thuần túy hoặc được sản xuất toàn bộ trong khu vực TPP và chỉ từ các nguyên liệu có xuất xứ từ TPP hoặc được sản xuất tại TPP, sử dụng nguyên liệu không có xuất xứ từ TPP nhưng đáp ứng được các quy tắc xuất xứ cụ thể từng mặt hàng quy định.
Đây cũng là cái phổ biến nhất với DN hỗ trợ điện tử do quy trình sản xuất sản phẩm CNTT thường theo chuỗi với các nguyên liệu và công đoạn diễn ra ở nhiều nước trên thế giới.
Còn đối với EVFTA, để hưởng ưu đãi thuế quan, hàng điện tử Việt Nam phải có xuất xứ nội khối. Điều này được đánh giá là còn khó khăn hơn nhiều so với quy định của TPP.
Có thể kể những lí do sau: DN nội địa không có nhiều lựa chọn trong nguồn nhập khẩu như ở TPP; đòi hỏi tỷ lệ nguyên liệu có xuất xứ của các sản phẩm CNTT ở Việt Nam phải đạt tối thiếu 85%-90%; các nguyên liệu này cũng phải trải qua các quy trình sản xuất nhất định tại Việt Nam mới được coi là sản phẩm có xuất xứ.
![]() |
Các DN nội có thể tham gia vào chuỗi giá trị bằng cách sản xuất các thiết bị, linh kiện hỗ trợ ngành điện tử trong ngành công nghiệp hỗ trợ cũng như các khâu gia công khác
Thời của “gia công”?
Việt Nam vẫn đang xuất siêu các mặt hàng linh kiện điện tử sang một số thị trường chủ yếu như Hàn Quốc, Trung Quốc, ASEAN, EU và Hoa Kì. Nhưng với những khó khăn như trên, ta có thể quay lại thời kì nhập siêu từ các thị trường lớn bất cứ lúc nào. Đặc biệt là mới đây, Việt Nam đã bắt đầu nhập siêu từ Nhật Bản, chấm dứt ba năm xuất siêu kể từ năm 2012.
Hiện nay, phần lớn các doanh nghiệp xuất khẩu các mặt hàng linh kiện điện tử, sản phẩm CNTT là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tuy vậy, thị trường vẫn còn rộng thênh thang với các DNVVN.
Ts Tuệ Anh cho biết rằng quy mô xuất khẩu càng lớn, các DN FDI càng cần nhiều sản phẩm trung gian. Các DN nội có thể tham gia vào chuỗi giá trị bằng cách sản xuất các thiết bị, linh kiện hỗ trợ ngành điện tử trong ngành công nghiệp hỗ trợ cũng như các khâu gia công khác.
Ông Phạm Minh Đức, Trưởng phòng Phát triển kinh doanh, công ty TNHH Creatz3D Việt Nam, khẳng định các FTA không chỉ dành cơ hội cho các DN xuất khẩu mà còn cả các doanh nghiệp hỗ trợ, gia công. Đặc biệt là trong làn sóng chuyển dịch sản xuất từ Trung Quốc sang Việt Nam.
Hiện tại, giá nhân công Trung Quốc đắt gần gấp ba so với Việt Nam. Tuy vậy, ta cũng không thể mãi duy trì lợi thế giá nhân công rẻ trong tương lai. Bên cạnh đó, giá nguyên vật liệu sản xuất đầu vào của Việt Nam khá cao do phải nhập khẩu từ Trung Quốc.
Trước nhiều sức ép, các DN nội muốn tồn tại và hội nhập, không còn cách nào khác, phải “quốc tế hóa khả năng cạnh tranh, tối ưu hóa quá trình quản trị sản xuất, rút ngắn thời gian đưa sản phẩm từ ý tưởng đến được tay khách hàng”…
Tuy vậy, theo ông Đức, đa phần các DN trong nước còn gặp khó khăn do tầm nhìn và tư duy còn hạn hẹp, thiếu tiếp cận thông tin và ứng dụng các công nghệ hiện đại trong quá trình sản xuất để tối ưu hóa quy trình, tiết kiệm chi phí.
Xét về năng lực cạnh tranh của 12 nước thành viên TPP, Việt Nam ở vị trí thứ ba từ dưới lên (hơn Mexico và Peru); về cơ sở hạ tầng, Việt Nam chỉ hơn được Peru.
Trình độ công nghệ của Việt Nam thấp nhất so với 11 quốc gia còn lại trong khối TPP. Xếp hạng thuận lợi môi trường kinh doanh của Việt Nam năm 2015, theo đánh giá của Doing Business, Việt Nam có thứ hạng 78/189 quốc gia, thậm chí còn tụt 6 bậc so với năm 2014.
Chia sẻ với những băn khoăn của ông Đức, bà Lan Phương cho rằng các DN nội đang phải chịu cảnh “thuyền bé ra biển lớn”. Từ trải nghiệm trực tiếp ở vị trí một người tư vấn về các FTA, bà cho biết hầu như chỉ có các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam sốt sắng và ráo riết chuẩn bị thông tin, cập nhật liên tục về các quy định trong FTA để tìm kiếm cơ hội xuất khẩu hàng hóa.
Phương Nguyên
Ông Phạm Minh Đức - Công ty TNHH Creatz3D Việt Nam Trong khi các quốc gia trong khối ASEAN như Singapore, Thái Lan… đang mạnh mẽ ứng dụng công nghệ in 3D trong các dây chuyền sản xuất thì các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam gần như chưa biết đến công nghệ này. Nếu không thể tối ưu hóa được quá trình sản xuất, quản trị bằng công nghệ, chúng ta sẽ nhanh chóng bị tụt hậu và lãng phí các cơ hội với TPP hay EVFTA. Bà Phùng Thị Lan Phương - Trưởng ban FTA trung tâm WTO và Hội nhập, VCCI Các hiệp hội, cơ quan nhà nước cần phối hợp tổ chức các buổi hội thảo phổ biến những quy định cụ thể về quy tắc xuất xứ trong TPP và EVFTA cho các doanh nghiệp trong ngành, đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân nhỏ và vừa trong nước để tăng cơ hội tận dụng được các ưu đãi này. Ts Nguyễn Thị Tuệ Anh - Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương Do việc đáp ứng quy tắc xuất xứ phải thực hiện ngay từ đầu (khâu tìm nguồn nguyên liệu, thiết kế quy trình sản xuất…) nên doanh nghiệp phải quan tâm vấn đề này sớm để tránh bị động, không nên để tới thời điểm xuất/nhập hàng hóa mới tìm hiểu. |