“Tăng phi mã” là nhận định chung cho tình hình nhập khẩu thép giá rẻ từ Ấn Độ vào Việt Nam trong 7 tháng đầu năm nay. Như báo cáo của Thương vụ Việt Nam tại Ấn Độ (thuộc Bộ Công Thương), nhập khẩu sắt thép các loại đã tăng đến 1.040% đạt 437,74 USD so với mức 38,38 triệu USD cùng kỳ năm trước.
Tổng cục Hải quan cho rằng tốc độ nhập khẩu thép Ấn Độ về Việt Nam tăng nhanh là do giá rẻ hơn cả thép Trung Quốc (thấp hơn hẳn 1 triệu đồng/tấn) và thấp hơn 1,4 triệu đồng/tấn so với mức giá thép nhập khẩu bình quân.
Chỗ thừa, chỗ nhập
Số liệu thống kê cũng cho thấy lượng sắt thép nhập khẩu trong 7 tháng 2017 đạt gần 9 triệu tấn, trị giá 5,24 tỷ USD, tăng 13,7% về lượng và tăng 16,8% về trị giá so với cùng kỳ năm trước.
Bên cạnh sự gia tăng đột biến từ thép Ấn Độ, thị trường cung cấp sắt thép các loại cho Việt Nam 7 tháng qua chủ yếu từ thị trường Trung Quốc với 4,48 triệu tấn, trị giá 2,52 tỷ USD.
Với 3/4 lượng sắt thép nhập khẩu của Việt Nam có xuất xứ từ Trung Quốc, thời gian qua, một lượng lớn sắt thép giá rẻ của nước này đã nhập vào Việt Nam, khiến ngành sản xuất thép trong nước điêu đứng.
Đáng lo nhất là tình trạng doanh nghiệp (DN) lẩn tránh thuế tự vệ với thép nhập khẩu bằng cách khai không đúng mã số hàng hóa, vừa gây thất thu thuế hàng chục triệu USD vừa tác động xấu đến thị trường thép trong nước.
Cũng nên nói đến tình hình tồn kho của một số “đại gia” ngành thép nội địa. Đơn cử như Tập đoàn Hòa Phát (thép Hòa Phát) có hàng tồn kho thép thành phẩm trị giá đến 3.754 tỷ đồng và tồn kho nguyên liệu, vật liệu thép khoảng 3.277,6 tỷ đồng.
Tôn Hoa Sen có lượng thép tồn kho thành phẩm đạt 1.642 tỷ đồng và tồn nguyên liệu, vật liệu thép khoảng 2.518 tỷ đồng. Một số “đại gia” sản xuất và kinh doanh thép khác như Thép Nam Kim, Thép Tiến cũng có tỷ lệ tồn kho trên 20%.
![]() |
Thép Ấn Độ giá rẻ nhập vào Việt Nam thời gian qua đã tăng phi mã
Theo số liệu của Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA), lượng thép tồn kho tính đến thời điểm 31/7/2017 là 530.306 tấn, giảm 19% so với thời điểm cuối tháng 6/2017. VSA nhận định có sự cạnh tranh giữa các nhà sản xuất ngày càng gay gắt trong việc duy trì thị phần. Trong 7 tháng 2017, sản lượng bán hàng của khối Tổng công ty Thép Việt Nam (VnSteel) đã giảm 5%.
Trong một diễn biến mới nhất, Thủ tướng Chính phủ vừa giao Bộ Công Thương làm rõ thông tin phản ánh thép ồ ạt nhập khẩu đều là các sản phẩm trong nước dư thừa, đặc biệt do lách thuế nên giá các sản phẩm thép này rất rẻ, thép nội khó có thể cạnh tranh.
Cạnh tranh sống còn
Bộ Công Thương sẽ tiếp tục có nhiệm vụ xem xét, có giải pháp xử lý kịp thời chuyện này. Còn theo đánh giá của giới chuyên gia, ngành thép vẫn là ngành nhập siêu và đến năm 2020 tới sẽ vẫn như vậy. Như lý giải của ông Nguyễn Văn Sưa, Phó Chủ tịch VSA, Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển cơ sở hạ tầng, bất động sản nên có nhu cầu tiêu thụ thép cao.
Ts Nguyễn Văn Sưa cho biết do biện pháp thúc đẩy xuất khẩu từ Trung Quốc nên có dấu hiệu của gian lận thương mại, trong đó có gia tăng xuất khẩu “thép hợp kim”, thực tế vẫn là thép thông thường. Các DN nhập khẩu khi khai báo chuyển từ mã HS này sang mã HS khác dẫn đến lượng nhập khẩu thực tế vẫn tăng mặc dù đã áp thuế.
Thế nhưng, ngoài chuyện lách thuế của thép ngoại, cũng phải thừa nhận rằng ngành thép nội địa cạnh tranh yếu vì bị phát triển lệch lạc, chỗ thừa chỗ thiếu. Trong khi thép xây dựng dư thừa thì nhiều sản phẩm thép khác mà trong nước đến nay vẫn gần như chưa sản xuất được hoặc sản xuất được nhưng không đáp ứng đủ nhu cầu chẳng hạn như thép cán tấm nóng, thép hợp kim, thép mạ, thép không gỉ, thép chế tạo… Và do vậy, Việt Nam vẫn phải nhập khẩu từ nước ngoài.
Đặc biệt đối với thép cho ngành công nghiệp cơ khí, chế tạo (máy móc, đóng tàu) thì Việt Nam gần như vẫn phải nhập hoàn toàn. Điều này không phải do ngành công nghiệp cơ khí chế tạo của Việt Nam phát triển quá mức dẫn đến nguồn cung không đủ đáp ứng mà là do quy hoạch phát triển ngành thép với ngành cơ khí chế tạo không tương thích với nhau.
Một câu hỏi khác được được đặt ra là trong bối cảnh nhu cầu thép ở trong nước tăng nhanh, ngành thép nhập siêu thì nên phát triển ngành thép nội địa ở mức độ nào? Theo quan điểm cá nhân của Ts Nguyễn Văn Sưa, ngành thép Việt Nam chỉ nên sản xuất ở mức độ 70 – 80% nhu cầu, nếu còn thiếu thì điều chỉnh nhập khẩu. Như vậy là vừa đủ có thể đảm bảo tính độc lập của nền kinh tế cũng như tận dụng nguồn dư thừa thép hiện nay.
Giới chuyên gia cũng lưu ý, nếu muốn cạnh tranh với thép ngoại trên thị trường nội địa, không cách nào khác là các DN thép nội phải bán sản phẩm với mức giá tương đương hoặc thấp hơn từ 10 đến 20% so với sản phẩm nhập khẩu.
Nếu giữ được mức giá nội địa thấp có thể sẽ giúp tăng khả năng cạnh tranh nhằm tiếp tục thu hút khách hàng trong các lĩnh vực như đóng tàu, máy móc tự động, điện tử và xây dựng.
Chính vì thế, đi đầu về giá cạnh tranh là yếu tố quan trọng quyết định sự sống còn và khả năng cạnh tranh của DN thép Việt trong lúc này.
Thế Vinh