Có thể thấy, việc “trả đũa thương mại” của Ấn Độ xuất phát từ Quyết định 558/QĐ-BNN-BVTV ngày 1/3/2017 (có hiệu lực 60 ngày kể từ ngày ký) của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) Việt Nam về việc tạm ngừng nhập khẩu các mặt hàng có nguy cơ cao mang theo mọt lạc Serratus từ Ấn Độ vào.
Đòn “nắn gân”!
Theo Bộ NN&PTNT Việt Nam, lạc, hạt muồng, hạt ca cao, hạt đậu cô ve và quả me từ Ấn Độ là đối tượng kiểm dịch thực vật của Việt Nam do có nguy cơ cao nhiễm mọt Caryedon Serratus Olivier.
Trong năm 2016, Việt Nam đã phát hiện hơn 3.000 tấn lạc, 24 tấn quả me và từ đầu năm 2017 đến nay, tiếp tục phát hiện thêm 380 tấn lạc từ Ấn Độ bị nhiễm mọt lạc Serratus còn sống.
Đáp trả lại, thông báo tạm ngừng nhập khẩu hạt cà phê, tre (tăm tre), tiêu đen, quế, sắn và thanh long đã được phía Ấn Độ phát đi hồi đầu tháng 3/2017 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 7/3/2017.
Trước thông tin này, Thủ tướng Chính phủ giao Bộ NN&PTNT chủ trì, phối hợp với Bộ Công Thương nghiên cứu, làm rõ thông tin phản ánh nêu trên, báo cáo đề xuất Thủ tướng Chính phủ phương hướng xử lý phù hợp trong tháng 3/2017.
Trong động thái sau đó, ngày 15/3, Bộ Công Thương Việt Nam đã có công hàm đề nghị phía Ấn Độ tuân thủ thông lệ quốc tế cũng như sớm bãi bỏ việc tạm dừng nhập khẩu các mặt hàng nông sản nêu trên của Việt Nam.
Sau các cuộc trao đổi qua lại, trong diễn biến mới nhất, Ấn Độ đồng ý gỡ bỏ lệnh cấm nhập khẩu này. Song đáng nói là phía Việt Nam phải điều chỉnh lại Quyết định 558 của Bộ NN&PTNT.
Theo đó, những mặt hàng nông sản được nêu trong quyết định này sẽ không bị tạm ngưng nhập khẩu mà sẽ được cơ quan chức năng kiểm tra như bình thường, lô hàng nào bị nhiễm mọt sẽ bị xử lý, lô hàng nào không bị nhiễm mọt sẽ được đưa vào thị trường bình thường.
Rõ ràng, “đòn nắn gân” tuy ngắn ngủi của Ấn Độ vào Quyết định 558 nhưng tỏ ra có hiệu quả hơn khi đánh vào điểm yếu của các mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam.
Đơn cử với mặt hàng hồ tiêu (vốn chiếm một phần quan trọng trong kim ngạch xuất sang Ấn Độ), trong thời gian Ấn Độ có lệnh tạm ngưng nhập khẩu, giá hồ tiêu của Việt Nam đã giảm liên tục. Lẽ dĩ nhiên, nông dân trồng tiêu hay các doanh nghiệp (DN) hồ tiêu không vui vẻ gì từ lệnh cấm này!
Thống kê cho thấy hồ tiêu và cà phê là hai mặt hàng nông sản xuất khẩu chiếm giá trị lớn của Việt Nam sang Ấn Độ. Năm 2016, Ấn Độ nhập khẩu từ Việt Nam 11.113 tấn tiêu các loại với trị giá 84,24 triệu USD, tăng 35,9% về lượng và tăng 11,3% về giá trị so với năm 2015. Ấn Độ còn nhập khẩu 45.790 tấn cà phê các loại với trị giá 79,44 triệu USD, tăng 67,1% về lượng và tăng 63,3% về giá trị so với năm 2015.
![]() |
Trong khoảng thời gian Ấn Độ có lệnh tạm ngưng nhập khẩu, giá hồ tiêu của Việt Nam đã giảm liên tục
Nỗi lo “rào cản”
Nhìn từ lệnh tạm dừng nhập nông sản Việt của Ấn Độ vừa qua, trong chuyện xuất khẩu nông – lâm – thủy sản, có thể thấy vấn đề “trả đũa thương mại” là một trong những điều đáng lo hiện nay, thậm chí ngày càng gia tăng các tiêu chuẩn đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam như thủy sản, gạo, rau quả…
Đơn cử, thời gian gần đây, theo báo cáo của Bộ Công Thương, Hàn Quốc yêu cầu tôm nhập khẩu phải thực hiện kiểm dịch, Úc vẫn tiếp tục lệnh tạm ngừng nhập khẩu tôm và thịt tôm chưa nấu chín từ Việt Nam… Điều này đã ảnh hưởng tiêu cực đối với ngành nuôi trồng và chế biến tôm xuất khẩu của Việt Nam.
Theo giới chuyên gia, phòng vệ thương mại lâu nay được xem là công cụ của nước nhập khẩu nhằm bảo vệ ngành sản xuất trong nước trước hành vi thương mại không công bằng của DN nước ngoài nhưng hệ quả từ các biện pháp tự vệ mới là điều đáng băn khoăn.
Chẳng hạn, với các DN XK nông sản của Việt Nam vào Ấn Độ khi nước này “trả đũa thương mại”, nỗi lo lớn nhất là nguy cơ mất thị trường xuất khẩu, gây thiệt hại về tài chính cho bản thân DN, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh…
Thách thức lớn với hàng Việt xuất khẩu hiện nằm ở việc các DN nước sở tại do không cạnh tranh được với hàng hóa Việt Nam xuất khẩu nên liên tục yêu cầu khởi xướng điều tra và áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại đối với DN Việt Nam.
Chính Bộ Công Thương cũng phải thừa nhận rằng các cam kết hội nhập một mặt tạo ra cơ hội nhưng đồng thời tiếp tục tạo ra nhiều thách thức lớn cho Việt Nam. Trong đó, các quốc gia ngày càng đưa ra nhiều yêu cầu kỹ thuật trong xuất khẩu đối với những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, tạo ra các “rào cản thương mại” với xuất khẩu của Việt Nam.
Do đó, yêu cầu đặt ra hiện nay là các cơ quan quản lý cần hỗ trợ các DN về thông tin và cách phòng tránh, xử lý những tranh chấp thương mại như kiện bán phá giá hoặc các lệnh cấm theo kiểu “trả đũa thương mại” từ quốc gia nhập khẩu. Đồng thời, cần tập trung giải quyết có hiệu quả các vụ kiện chống bán phá giá, chống trợ cấp mà các nước đang tiến hành đối với hàng xuất khẩu.
Giới chuyên gia cũng lưu ý rằng hầu hết các đối tác hiệp định thương mại tự do (FTA) của ta đều là thành viên của WTO, cho nên họ phải chấp nhận các nguyên tắc của WTO và chỉ “trả đũa thương mại” nếu việc sử dụng các công cụ chính sách này vi phạm các nguyên tắc của WTO.
Thế Vinh