Nếu tăng tỷ lệ nợ công thêm từ 2 - 3%, khả năng các chỉ tiêu nợ công, nợ Chính phủ so với GDP vẫn nằm trong giới hạn được Quốc hội cho phép (Ảnh minh hoạ: Internet) |
Theo đánh giá của Bộ Tài chính, nợ công so với GDP của Việt Nam đã giảm mạnh từ 63,7% năm 2016 xuống khoảng 55% cuối năm 2019, so với mức trần Quốc hội cho phép là 65% GDP thì áp lực gánh nặng nợ công đã giảm đi rất nhiều. Đây chính là dư địa tài khóa giúp nền kinh tế chống chọi được những cú sốc như đại dịch Covid-19 mà không gây ra bất ổn vĩ mô, tài chính – ngân sách và bền vững nợ công.
Nợ công giảm nhưng áp lực trả nợ lớn
Đối với năm 2020, trên cơ sở kịch bản tăng trưởng Bộ KH&ĐT trình Chính phủ và Quốc hội, Bộ Tài chính đã đưa ra các kịch bản đánh giá tác động đến cân đối ngân sách nhà nước (NSNN) và nợ công, theo đó, dự kiến nợ công có thể lên khoảng 57 - 58% GDP vào cuối năm 2020.
Tuy nhiên, theo ông Võ Hữu Hiển, Phó Cục trưởng Cục Quản lý nợ và tài chính đối ngoại, Bộ Tài chính, xu hướng giảm nợ công một phần phản ánh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công, trong đó có vốn vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài, rất chậm.
Việc này một mặt hạn chế đóng góp cho tăng trưởng từ nguồn vốn vay, mặt khác ngân sách vẫn phải chịu chi phí cam kết đối với các khoản vay đã ký kết và chưa giải ngân và áp lực trả nợ đang ngày càng lớn lên.
Đến nay, Việt Nam đã thành nước thu nhập trung bình, thoát ra khỏi đói nghèo, do đó không còn được vay ưu đãi với lãi suất thấp, ngược lại sẽ phải vay thương mại với lãi suất cao hơn, kỳ hạn rút ngắn lại đáng kể so với thời kỳ trước. Nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ so với thu NSNN năm 2019 ước khoảng gần 18%, cao hơn khá nhiều so với mức 15,8% cuối năm 2016.
Trong năm 2020, khả năng thu NSNN không đạt mục tiêu đặt ra sẽ gây áp lực lên chỉ tiêu nghĩa vụ trả nợ so với thu NSNN vốn đang có xu hướng tăng lên trong những năm gần đây, tiến rất sát ngưỡng 25% được Quốc hội cho phép trong giai đoạn 2016-2020, thậm chí có thể vượt ngưỡng 25% trong giai đoạn 2021 - 2025.
Điều này một mặt dẫn đến tình trạng dư địa ngân sách cho các khoản chi đầu tư phát triển, chi thường xuyên sẽ giảm mạnh; mặt khác việc thu xếp nguồn tiền để trả nợ là điều không thể xem nhẹ, nhất là khi nhiều năm nay, chúng ta vẫn phải vay nợ mới để trả nợ cũ.
Theo kế hoạch vay, trả nợ công năm 2020, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt kế hoạch vay của Chính phủ năm 2020 là 501 nghìn tỷ đồng, gồm: vay trong nước 394 nghìn tỷ đồng và vay nước ngoài 107 tỷ đồng.
Trước tác động của dịch Covid-19, Thủ tướng Chính phủ vừa có chủ trương xem xét việc tăng tỷ lệ nợ công thêm từ 2 - 3% GDP để có thêm nguồn lực hỗ trợ nền kinh tế.
Cân nhắc nâng trần nợ công
Theo tính toán của Bộ Tài chính, nếu tăng vay vốn thêm 2 - 3% GDP, tương ứng với 180 - 240 nghìn tỷ đồng (trên cơ sở GDP đánh giá lại), khả năng các chỉ tiêu nợ công, nợ Chính phủ so với GDP vẫn nằm trong giới hạn được Quốc hội cho phép. Tuy vậy, đây sẽ là thách thức không nhỏ.
Ngoài ra, tình hình giải ngân nguồn vốn đầu tư công, trong đó có các khoản vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài từ đầu năm đến nay còn rất chậm, hiện còn trên 10 tỷ USD các khoản vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài đã ký kết, cần ưu tiên giải ngân ngay trong năm nay cũng như giai đoạn tới theo đúng cam kết với các nhà tài trợ.
Trong khi đó, việc huy động vốn vay nước ngoài cho chương trình dự án mới đòi hỏi thời gian chuẩn bị dài, có thể lên tới 2 - 3 năm. Nếu huy động vốn vay nước ngoài để hỗ trợ trực tiếp cho ngân sách có thể triển khai nhanh hơn, nhưng thông thường các khoản vay này có quy mô nhỏ và kèm theo ràng buộc chính sách.
Mặt khác, khả năng hấp thụ vốn của thị trường trái phiếu Chính phủ trong nước còn hạn chế. Việc thực hiện phát hành thêm khối lượng vốn lớn sẽ dẫn đến nguy cơ gây áp lực gia tăng chi phí vay vốn của Chính phủ, hoặc dẫn đến rủi ro tái cấp vốn trong những năm sau trong trường hợp Chính phủ phải phát hành trái phiếu kỳ hạn ngắn để đáp ứng nhu cầu vay tăng cao.
Qua nghiên cứu tình hình các nước cho thấy, việc bội chi, nợ công gia tăng mạnh trở lại, cũng như việc tham gia vào các sáng kiến giảm nợ của một số tổ chức quốc tế đã ảnh hưởng trực tiếp và tiêu cực lên hệ số tín nhiệm của một số nước. Việc này một mặt làm ảnh hưởng đến uy tín và hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế, mặt khác còn làm tăng chi phí vay vốn của toàn bộ nền kinh tế.
“Việc huy động các nguồn vay mới, bao gồm cả các khoản hỗ trợ Covid-19, cần được thẩm định, lựa chọn kỹ về tính hiệu quả, so sánh chi phí - lợi ích để đảm bảo khả năng trả nợ trong trung, dài hạn trước khi quyết định vay", ông Hiển nói.
Trường hợp Quốc hội phê duyệt điều chỉnh tăng tỷ lệ bội chi NSNN năm 2020, cần tính đến việc huy động từ các quỹ dự trữ tài chính trong nước, từ ngân quỹ nhà nước, cũng có thể phải tính đến phương án phát hành trái phiếu Chính phủ trên thị trường vốn quốc tế.
Đồng thời, cần đa dạng hóa các nguồn lực khác như tranh thủ nguồn viện trợ, đầu tư trực tiếp nước ngoài để giảm áp lực lên nợ công.
Thanh Hoa