Ba tháng đầu năm 2016, kim ngạch XK NLTS ước đạt 6,73 tỷ USD, tăng 3,1% so với cùng kỳ năm 2015. Trong đó, giá trị XK các mặt hàng nông sản chính ước đạt 3,41 tỷ USD, tăng 8,6%; giá trị XK thủy sản ước đạt 1,36 tỷ USD, tăng 1,7%; giá trị XK các mặt hàng lâm sản chính ước đạt 1,57 tỷ USD, giảm 1,1%.
Thách thức vẫn còn ở phía trước
Nhóm mặt hàng tăng trưởng mạnh là gạo và và phê, với lượng gạo XK trong tháng 3 ước đạt 629.000 tấn, giá trị đạt 274 triệu USD, đưa khối lượng XK gạo 3 tháng đầu năm 2016 ước đạt 1,59 triệu tấn và 692 triệu USD, tăng 41,6% về khối lượng và tăng 40,8% về giá trị so với cùng kỳ năm 2015. Giá gạo XK bình quân tháng 2/2016 đạt 433 USD/tấn, giảm 5,78% so với cùng kỳ năm 2015.
Indonexia vươn lên là thị trường nhập khẩu (NK) gạo lớn nhất của Việt Nam trong 2 tháng đầu năm 2016, với thị phần đạt 31,42%. Trung Quốc, đứng vị trí thứ hai, với 17,15% thị phần. Các thị trường có sự tăng trưởng mạnh là Philippines, tăng hơn 11 lần về khối lượng và giá trị, chiếm 13,75% thị phần; Malaysia tăng 51,49% về khối lượng, tăng 49,27% về giá trị; Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất tăng 42,27% về khối lượng, tăng 23,85% về giá trị. Các thị trường có sự giảm lớn là Bờ Biển Ngà, giảm 25,19% về khối lượng, giảm 8,04% về giá trị; Singapore giảm 20,1% về khối lượng, giảm 21,8% về giá trị.
Ba tháng đầu năm, mặt hàng cà phê XK ước đạt 479.000 tấn, kim ngạch 808 triệu USD, tăng 30,2% về khối lượng và tăng 5,7% về giá trị so với cùng kỳ năm 2015. Giá cà phê XK bình quân đạt 1.711 USD/tấn, giảm 18,8% so với cùng kỳ năm 2015. Đức và Hoa Kỳ tiếp tục là hai thị trường tiêu thụ cà phê lớn nhất của Việt Nam trong 2 tháng đầu năm 2016, với thị phần lần lượt là 17,09% và 12,67%. Một số mặt hàng có giá bán giảm, nên dù tăng về lượng XK, nhưng số tiền thu về vẫn thấp hơn so với cùng kỳ năm trước, như cao su, tiêu. Mặt hàng chè giảm cả lượng lẫn giá trị. XK gỗ giảm nhẹ 1,4%, thủy sản tăng 1,7% so với cùng kỳ năm trước.
Theo ông Trần Thanh Hải - Phó Cục trưởng Cục XNK (Bộ Công Thương), XK tăng mạnh là do các hợp đồng XK tập trung. Tuy nhiên, thách thức với XK gạo vẫn còn ở phía trước khi nguồn cung gạo trên thị trường thế giới tương đối dồi dào bởi các quốc gia Thái Lan, Ấn Độ, Campuchia, Mianma đang tham gia vào thị trường này. Về lâu dài, Việt Nam muốn cạnh tranh được phải thay đổi cách thức chọn giống, canh tác, xây dựng thương hiệu, định vị thị trường cho phù hợp.
Về vấn này, Ts. Nguyễn Đỗ Anh Tuấn - Viện trưởng Viện Chính sách và chiến lược phát triển nông thôn (Ipsard), cảnh báo hiện nay, việc tận dụng tài nguyên, nguồn lao động giá rẻ trong sản xuất, XK gạo đã bị các nước Campuchia, Mianma theo khá sát rồi.
Đối thủ lớn là Thái Lan đang trong bối cảnh thiếu nước, hạn hán đã dự định giảm bớt diện tích trồng lúa do lượng tồn kho năm ngoái rất nhiều. Chủ trương của họ là đẩy bớt gạo tồn kho đi.
Bên cạnh đó, thị trường XK gạo Việt Nam còn phải đối mặt với đối thủ tiềm tàng như Ấn Độ, Pakistan. Do đó, ngành lúa gạo phải tiến hành tái cơ cấu theo hướng chuyển từ thị trường phân khúc thấp sang phân khúc cao hơn để cạnh tranh. Tuy nhiên, ông Tuấn cũng lưu ý quá trình chuyển đổi phải có lộ trình, không phải câu chuyện trong ngắn hạn.
![]() |
Cần nâng cao năng lực chế biến nông sản xuất khẩu
Nhiều đối thủ đáng gờm
Nhận định về tình hình XK, Ts. Nguyễn Đỗ Anh Tuấn cho rằng XK nông sản năm nay có hai vấn đề chính, đó là XK nông sản khá khó khăn do thiên tai, thời tiết bất thuận gây ảnh hưởng đến quá trình sản xuất, dịch bệnh. Mặc dù Bộ NN&PTNT đã có nhiều nỗ lực trong việc khắc phục khó khăn, nhưng nếu không xử lý rốt ráo thì khó có thể duy trì nguồn cung. Cầu thế giới đang có dấu hiệu nhích lên, một số mặt hàng có tín hiệu giá nhích lên, tuy nhiên cũng khó tăng mạnh. XK năm nay nhiều khả năng khá khó khăn.
AEC có hiệu lực từ 1/1/2016 có ảnh hưởng nhất định đến chúng ta. Đặc biệt chúng ta cần phải dè chừng đối thủ cạnh tranh lớn là Thái Lan - một quốc gia mạnh về rau quả, chăn nuôi. Tuy nhiên, AEC có hiệu lực cũng tạo lợi thế cho mặt hàng gạo khi hàng rào thuế quan đối với lúa gạo giảm, việc thâm nhập vào thị trường Philippines, Malaysia sẽ tốt hơn.
Với những mặt hàng nông sản khác, trước khi có AEC thuế hầu hết đã về 0 rồi, do một loạt hiệp định đã ký trước đó, ảnh hưởng của việc giảm thuế không nhiều nhưng đáng lo là việc tự do hóa thị trường đầu tư, thị trường bán lẻ nếu nước nào có tiềm năng tốt về đầu tư nông nghiệp, bán lẻ sẽ là đối thủ lớn với chúng ta. Nếu không có cú hích đủ lớn, không có những công ty đủ mạnh để cạnh tranh với quốc gia đó (đáng chú ý là Thái Lan), thì một sỗ chuỗi bán lẻ rất có thể bị thâu tóm, các mặt hàng của chúng ta sẽ đứng trước nguy cơ mất thương hiệu.
Với TPP, các chuyên gia cũng nhận định thách thức lớn nhất với nông sản Việt vẫn là hàng rào kỹ thuật, tiêu chuẩn về ATTP. Theo ông Trần Thanh Hải, trong các hiệp định VPA nói chung, TPP nói riêng, hàng rào thuế quan giảm, nhưng hàng rào kỹ thuật chắc chắn được bảo vệ hợp pháp bởi những quy định về sức khỏe môi trường. Chúng ta có nhiều thuận lợi về thuế quan, nhưng chúng ta phải nâng cao năng lực chế biến, tránh việc nhiều mặt hàng bị trả về như thời gian qua.
Thu Hường