Hiện tại, các sản phẩm dệt may Việt Nam chưa thể khẳng định thương hiệu, uy tín của mình trên thị trường thế giới. Chúng ta XK nhiều, giá trị sản phẩm mang tính toàn cầu thì gần như không có, cạnh tranh trong nước còn chịu nhiều áp lực so với thương hiệu đa quốc gia. Mặc dù ngành dệt may được đánh giá là có tác động lớn khi tham gia hiệp định TPP, nhưng nếu không tận dụng được thì vẫn bị tụt hậu.
Ưu đãi nhiều, hưởng lợi bao nhiêu?
Các hiệp định ưu đãi từ FTA mang lại được xem là rất lớn, nhưng liệu các DN XK trong ngành dệt may của Việt Nam có đáp ứng đầy đủ các quy định về xuất xứ hàng hóa là thách thức lớn. Cứ cho rằng hàng hóa chúng ta đang XK sẽ được hưởng lợi rất lớn khi có nguồn gốc từ Việt Nam.
Tuy nhiên, từ trước đến nay chúng ta vẫn chỉ gia công cho các đối tác nước ngoài, thì những ưu đãi thuế quan ấy cũng chẳng thêm được bao nhiêu. Nếu như trong hiệp định ASEAN với các nước (trừ Hàn Quốc), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU đều có quy tắc xuất xứ từ vải, nhưng với TPP, quy tắc xuất xứ là từ sợi.
Theo nhận định chung, hầu hết nguyên liệu sợi, vải phục vụ cho ngành dệt may Việt Nam phải nhập từ nước ngoài, phần lớn là từ Trung Quốc (không phải là thành viên của TPP). Do đó, nếu không sử dụng nguồn nguyên liệu trong nước hoặc các nước trong TPP, các DN dệt trong nước sẽ khó được hưởng ưu đãi về thuế quan khi XK hàng sang Mỹ và các nước trong TPP. Nếu không bảo đảm yêu cầu này, DN cũng phải chịu mức thuế như bình thường.
Với quy tắc “từ sợi trở đi”, bắt buộc các DN dệt may trong nước phải sử dụng nguyên liệu trong nước hoặc NK từ các nước trong TPP để được hưởng thuế suất ưu đãi. Trong hàng trăm DN dệt may, chỉ mới một, hai doanh nghiệp đáp ứng được tiêu chuẩn khắt khe kể trên. Quy tắc xuất xứ buộc DN dệt may phải lớn mạnh, nhằm duy trì sự cân bằng hợp lý giữa “thuận lợi hóa thương mại” và “phòng tránh gian lận thương mại,” nhằm đo mức độ tận dụng ưu đãi từ các FTA của các nền kinh tế thành viên.
![]() |
Sẽ có sự tập trung hóa quản lý các dự án đầu tư dệt may
Nhập khẩu nhiều, nên rất thiếu và yếu
Theo số liệu thống kê của Hiệp hội Bông sợi Việt Nam, trong năm 2014, Việt Nam nhập các loại nguyên liệu thô như bông, sợi polyester, sợi viscose để sản xuất được trên 900.000 tấn sợi. Tuy nhiên, do công đoạn sản xuất vải trong nước chỉ hấp thụ được khoảng 300.000 tấn, nên số sợi còn lại dành cho XK. Trong khi đó, hàng năm, ngành dệt may cần khoảng 8,7 tỷ mét vải, nhưng với năng lực và công nghệ yếu, chỉ sản xuất được khoảng 3 tỷ mét vải/năm. Chúng ta cần phải nhanh chóng bổ sung năng lực sản xuất gần 6 tỷ mét vải/năm, nếu các thị trường XK tiếp tục tăng trưởng thì sẽ còn rất lớn.
Như vậy, dù có nhập sợi về thì ngành dệt may vẫn thiếu và không thể tự sản xuất vải cho các DN trong nước. Cho nên, dù doanh thu XK dệt may của Việt Nam có thể đạt tới 28 tỷ USD trong năm nay, nhưng tỷ lệ nội địa chỉ đạt 55%, thì lợi nhuận vẫn còn ở mức khiêm tốn. Tỷ lệ nguyên liệu và phụ liệu nội địa như dệt nhuộm còn yếu kém, khiến cho việc sản xuất sợi dệt nhuộm hạn chế theo. Công nghệ yếu kém, mực nhuộm vẫn phải nhập nên đành “bó tay”.
Để hoàn thiện chuỗi cung ứng giá trị sản xuất tại Việt Nam (từ vải thô, chưa tẩy trắng thành vải hoàn thiện) cần sự đầu tư của Nhà nước với quy mô lớn. Điều này không chỉ giúp các DN dệt may đáp ứng được các quy tắc xuất xứ, hưởng ưu đãi thuế quan khi XK hàng hóa tới các nước thành viên trong các FTA, mà còn tạo thêm nhiều việc làm cho lao động Việt Nam.
Theo Hiệp hội Dệt may Việt Nam, hiện chỉ có rất ít DN thực hiện được chuỗi khép kín như Dệt Nam Định, Dệt Thành Công, Dệt 8/3… Tuy nhiên, xét về cả quy mô lẫn chất lượng vải cũng chưa đạt yêu cầu. Thực tế, đã có một luồng đầu tư mạnh mẽ từ những nhà đầu tư trong và ngoài nước để thiết lập chuỗi cung ứng khép kín từ sợi tới may. Hầu hết các địa phương từ chối các dự án đầu tư sản xuất vào dệt nhuộm do lĩnh vực này gây ô nhiễm môi trường.
Theo ông Nguyễn Hồng Giang - Chủ tịch Hiệp hội Bông sợi Việt Nam, Việt Nam phải có hạ tầng khu công nghiệp tốt như quỹ đất lớn, hệ thống xử lý nước thải, cung cấp nước sạch. Đồng thời, những DN kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp, nếu được hoạch định về địa điểm đầu tư tốt, sẽ có được sự tập trung hóa quản lý các dự án đầu tư dệt may, đặc biệt là dệt nhuộm. Có như vậy mới giúp tăng tỷ lệ nội địa hóa, giảm thiểu chi phí, giải quyết phần nào bài toán về nguyên phụ liệu cho ngành dệt may Việt Nam.
Lê Thuận