Ngành chế biến rau quả Việt Nam trong những năm vừa qua đã đạt được những thành tựu đáng kể, đã XK được trên 40 quốc gia vùng lãnh thổ. Theo Hiệp hội Rau quả Việt Nam, Việt Nam có khoảng 1,68 triệu ha trồng rau quả, tổng sản lượng khoảng 18 triệu tấn.
Trong giai đoạn 2007 - 2013, mặc dù ngành rau quả có tốc độ tăng trưởng XK bình quân đạt khoảng 26%, nằm trong nhóm 5 quốc gia XK rau quả lớn nhất thế giới, nhưng tỷ trọng XK vào phân khúc thị trường khó tính như Nhật Bản, Mỹ và EU còn hạn chế. Một trong các nguyên nhân cơ bản là do năng lực công nghệ còn thấp nên ảnh hưởng lớn tới chất lượng và giá thành sản phẩm.
Năng lực công nghệ còn nhiều hạn chế
Để thúc đẩy hoạt động, nâng cao năng lực công nghệ trong các DN chế biến rau quả, Chính phủ đã ban hành một số chính sách. Tuy nhiên, việc áp dụng các chính sách này còn gặp nhiều khó khăn, hệ thống văn bản được DN đánh giá còn thiếu đồng bộ, sự tham gia của DN khi ban hành chính sách còn hạn chế, sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước còn chưa thực sự tốt.
Ts. Nguyễn Hữu Xuyên - Trường Đại học Kinh tế quốc dân, cho biết kết quả khảo sát 32 DN chế biến rau quả trên địa bàn Hà Nội và Bắc Ninh cho thấy, có tới 62,5% DN đánh giá là các văn bản còn chồng chéo và thiếu sự đồng bộ, 65,5% DN cho rằng họ không được tham gia hoặc tham gia một cách hình thức trong việc ban hành các chính sách liên quan tới hoạt động đổi mới công nghệ; 43,8% DN đánh giá sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước trong việc thực thi chính sách liên quan tới các hoạt động công nghệ và đổi mới công nghệ còn chưa tốt như họ mong muốn. Do vậy, việc nhận biết và vận dụng các chính sách của Nhà nước còn nhiều khó khăn.
Cần hỗ trợ xây dựng hạ tầng công nghệ, phát triển thị trường công nghệ ngành rau quả
Nhận định về năng lực công nghệ ngành chế biến rau quả, Ts. Nguyễn Hữu Xuyên cho rằng năng lực công nghệ trong ngành chế biến rau quả còn nhiều hạn chế, tốc độ đổi mới công nghệ còn chậm, mức đầu tư cho đổi mới công nghệ so với doanh thu còn thấp, trình độ công nghệ được sử dụng trong quá trình chế biến còn lạc hậu, quy mô chế biến nhỏ lẻ, mức tổn thất sau thu hoạch còn cao nên hiệu quả đạt được còn thấp.
Kết quả khảo sát cũng cho thấy, có tới 43,8% DN đầu tư dưới 1% doanh thu/năm cho đổi mới công nghệ, 31,2% DN đầu tư 1 - 2% và chỉ có 25% DN đầu tư 2 - 3%. Đây là con số khiêm tốn so với các nước trong khu vực (Hàn Quốc 10%, Ấn Độ 5%).
Hỗ trợ nâng cao năng lực công nghệ
Trình độ công nghệ được sử dụng trong chế biến rau quả cũng còn lạc hậu. Cụ thể, khi so với các nước trong khu vực, DN đang sử dụng công nghệ có trình độ tiên tiến chỉ có 9,4%. Có 9,4% DN phân vân không rõ mình đang sử dụng công nghệ tiên tiến hay không, đồng thời có 71,9% DN chế biến rau quả cho rằng công nghệ mình đang sử dụng có mức độ đồng bộ hóa thấp.
Để góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh cho các DN chế biến rau quả Việt Nam, đồng thời thực hiện mục tiêu sản xuất, chế biến rau quả theo hướng sạch hơn, chất lượng và năng suất cao hơn, giá thành hạ hơn, hướng tới các thị trường XK rau quả như Mỹ, Australia, Liên bang Nga, Italia, Hungary và một số nước thuộc EU khác, các chuyên gia cho rằng Nhà nước cần có chính sách nhằm nâng cao năng lực công nghệ của ngành rau quả.
Cần rà soát và hoàn thiện các chính sách liên quan tới tín dụng, thuế nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho DN rau quả tiếp cận và làm chủ công nghệ. Đặc biệt, cần hỗ trợ trực tiếp cho các DN nâng cao năng lực nghiên cứu công nghệ thông qua việc thành lập các bộ phận nghiên cứu và triển khai ngay tại DN. Qua đó DN có thể hình thành các giải pháp công nghệ, đây là cơ sở để hình thành các sản phẩm, quy trình mới.
Đồng thời, Nhà nước khuyến khích các DN đặc biệt là các DNNVV áp dụng hệ thống quản lý tiên tiến như HACCP, ISO 2.200, nhằm tạo ra các sản phẩm bảo đảm chất lượng và ATTP. Cần tăng cường hoạt động tuyên truyền phổ biến chính sách ưu đãi thông qua các kênh khác nhau hướng tới người trồng rau, DN chế biến rau quả.
Để kích thích DN đẩy nhanh quá trình nâng cao năng lực công nghệ của mình, Nhà nước cần tăng cường sự tham gia, lắng nghe ý kiến của DN chế biến rau quả, các hiệp hội ngành rau quả, đây là những thông tin tham khảo có giá trị trong hoạch định chính sách, tổ chức thực thi và kiểm soát cách thức thúc đẩy ngành rau quả phát triển. Nâng cao hiệu quả sử dụng cơ sở hạ tầng công nghệ quốc gia, nâng cấp và đẩy nhanh việc xây dựng các trung tâm công nghệ từ Trung ương đến địa phương, các vườn ươm công nghệ, tạo nguồn cung công nghệ nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho DN đổi mới công nghệ.
Ngoài ra, Nhà nước cần hỗ trợ xây dựng hạ tầng công nghệ, phát triển thị trường công nghệ ngành rau quả, cũng như hỗ trợ DN xúc tiến các hoạt động thương mại nhằm nâng cao nhận thức, tìm kiếm và lựa chọn được khách hàng tiềm năng trên thị trường rau quả thế giới.
Thu Hường