Theo báo cáo phát triển nguồn nhân lực của Ngân hàng Thế giới (WB), chi phí lao động trong các ngành có lợi thế trong quá trình hội nhập kinh tế như dệt may, phụ kiện sẽ tăng. Khi các DN buộc phải tăng cường cạnh tranh, họ sẽ tìm cách cải tiến sản phẩm, nâng cao hiệu quả sản xuất và liên kết ngược và xuôi với các DN trong nước và ngoài nước trong chuỗi giá trị toàn cầu.
“Lỗ hổng kỹ năng”
Theo đánh giá của WB, 5 năm qua, tốc độ tăng trưởng bình quân của Việt Nam đạt gần 6%, trong khi các nước trong khu vực đạt 5,6%, quy mô nền kinh tế tăng gần gấp đôi, hiện nay đạt khoảng 200 tỷ USD. Thu nhập bình quân đầu người tăng 4,8% hàng năm, ước đạt khoảng 2.200 USD.
Tuy nhiên, mức tăng năng suất lao động (NSLĐ) giảm dần là vấn đề đáng quan ngại đối với kinh tế Việt Nam hiện chỉ đạt gần 4%, trong khi Trung Quốc là trên 7% và Hàn Quốc hơn 5% tại thời điểm các quốc gia này có trình độ phát triển như Việt Nam hiện nay.
“Tốc độ tăng NSLĐ hiện nay sẽ không đảm bảo tăng trưởng nhanh và bền vững đủ mức để từ đó Việt Nam có thể đi theo quỹ đạo như Hàn Quốc hay Đài Loan”, Giám đốc WB Việt Nam nhấn mạnh.
Bên cạnh đó, Tổ chức Năng suất châu Á cũng đánh giá Việt Nam nằm trong nhóm các quốc gia có NSLĐ thấp nhất tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Theo đó, NSLĐ của Việt Nam chỉ bằng 1/15 Singapore, 1/5 Malaysia, 2/5 Thái Lan.
Theo ông Michel Welmond, đại diện WB, trong khoảng 5 năm tới, dự tính đòi hỏi về kỹ năng sẽ không thay đổi cơ bản, nhưng ngay từ bây giờ, Việt Nam cần bắt tay ngay vào việc chuẩn bị cho sự thay đổi đó.
Đặc biệt, theo WB, hệ thống giáo dục đào tạo phải chịu trách nhiệm về việc thu hẹp lỗ hổng kỹ năng này, tức là phải đào tạo ra những sinh viên, công nhân có khả năng làm việc ngay và tiếp tục công việc trong tương lai.
![]() |
Nếu chỉ có những kỹ năng cơ bản thì lợi thế giá rẻ cũng không đủ để bảo đảm thành công lâu dài.
Đào tạo chưa theo kịp thị trường
Nguyên nhân WB chỉ ra là do Việt Nam đã xác định được một chương trình nghị sự nhằm đào tạo các kỹ năng cơ bản những công tác chuẩn bị cho sinh viên và học sinh sẵn sàng đảm đương được công việc trả lương cao hơn, với NSLĐ cao hơn vẫn chưa đạt yêu cầu.
Giáo dục và đào tạo Việt Nam vẫn còn nhiều điểm chưa khớp. Ngành đào tạo không khớp với nhu cầu trên thị trường lao động. Các cơ sở dạy cho học viên những nghề không còn tồn tại hoặc không có tương lai. Các cơ sở giáo dục và đào tạo không khớp với DN. Các DN ít khi tham gia thiết kế các chương trình đào tạo giảng dạy…
Cùng với đó, trong đợt đánh giá giữa kì lĩnh vực đột phá phát triển nguồn vốn con người trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, WB cũng xác định một số vấn đề gây cản trở cho công cuộc đổi mới hệ thống giáo dục ở Việt Nam hiện nay.
Cụ thể, thực tế phân công trách nhiệm giữa các cơ quan chính phủ không còn phù hợp với hoàn cảnh và mục tiêu phát triển nguồn vốn con người nữa. Muốn phát triển kỹ năng tốt, đòi hỏi ngành giáo dục, DN và cơ quan quản lí lao động phải hợp tác với nhau.
Nhưng các bộ chủ quản (GD&ĐT, Y tế, LĐ-TB&XH, Công Thương, NN&PTNT…) lại tranh giành nguồn vốn đã hạn hẹp, thay vì theo đuổi một chương trình nghị sự chung. Chính quyền trung ương, tỉnh và huyện quản lí và kiểm soát chồng chéo và cạnh tranh với nhau để có được nguồn lực dành cho giáo dục…
Theo WB, điều này đòi hỏi phải có bước phát triển đột phá về chất lượng nhân lực, nhân lực phải được coi trọng hơn lợi ích cục bộ của các cơ quan chủ quản hoặc các cấp chính quyền.
Đã có nhiều giải pháp, luật, quyết định về phát triển nguồn nhân lực được xây dựng, nhưng lại không được thực hiện thỏa đáng. Luật Giáo dục đại học và Luật Dạy nghề là hai ví dụ điển hình. Nhiều biện pháp có thể cho phép các cơ sở đào tạo chịu trách nhiệm hơn, tự chủ hơn nhưng không hoặc chưa được thực hiện.
Vì vậy, theo WB, kế hoạch phát triển trong 5 năm sắp tới, buộc các cơ sở đào tạo phải chịu trách nhiệm đáp ứng nhu cầu của DN, thông qua một hệ thống thông tin thị trường lao động dễ truy cập, kịp thời và hữu dụng, thông qua một cơ chế buộc các cơ sở đào tạo phải cộng tác hiệu quả hơn với các DN tuyển dụng tương lai để đào tạo cho phù hợp với thị trường lao động, ưu tiên tại địa phương và quy chuẩn quốc tế.
Thy Lê