Ngày 1/4, IHS Markit công bố báo cáo về chỉ số Nhà Quản trị Mua hàng (PMI) ngành sản xuất Việt Nam. Trong đó, 3 điểm nhấn đáng chú ý là việc làm và sản lượng đều giảm; Chi phí đầu vào tăng nhanh nhất trong gần 11 năm; Niềm tin kinh doanh giảm.
Chỉ số PMI ngành sản xuất Việt Nam giảm từ 54,3 điểm của tháng 2 xuống còn 51,7 điểm trong tháng 3. |
Theo IHS Markit, làn sóng gần đây của đại dịch Covid-19 ở Việt Nam đã khiến tình trạng thiếu hụt lao động trở nên phổ biến trong lĩnh vực sản xuất trong tháng 3, khi các công ty cho biết nhân viên bị nhiễm bệnh và do đó phải nghỉ làm.
Bởi lực lượng lao động giảm, sản lượng của các công ty cũng giảm và kéo theo đó là lượng công việc tồn đọng tăng. Trong khi đó, áp lực lạm phát tăng mạnh khi nhiều nơi cho biết chi phí dầu và khí đốt tăng.
Cụ thể, PMI ngành sản xuất Việt Nam đã giảm từ 54,3 điểm của tháng 2 còn 51,7 điểm trong tháng 3. Mặc dù nhìn chung các điều kiện kinh doanh đang tốt lên, mức độ cải thiện kỳ này là ít đáng kể nhất trong thời kỳ tăng trưởng kéo dài 6 tháng gần đây.
Nguyên nhân chính khiến tốc độ cải thiện tổng thể giảm là làn sóng đại dịch Covid-19 hiện nay ở Việt Nam. Một trong những ảnh hưởng chính lên các công ty là tình trạng nhiễm bệnh lan rộng trong công nhân, từ đó khiến việc làm giảm lần đầu tiên trong 4 tháng.
Tình trạng thiếu hụt nhân công khiến các công ty không thể duy trì khối lượng sản xuất, và sản lượng đã giảm lần đầu tiên trong 6 tháng. Áp lực lạm phát cũng đã góp phần làm giảm sản lượng, tuy nhiên mức giảm chỉ là nhẹ khi một số công ty đã tăng sản lượng tương ứng với mức tăng của số lượng đơn đặt hàng mới.
Khó khăn trong việc tăng sản lượng do thiếu lao động đã khiến lượng công việc tồn đọng tiếp tục tăng, và mức tăng kỳ này là đáng kể nhất kể từ tháng 9 năm ngoái. Những vấn đề xung quanh đại dịch và giá cả tăng cũng ảnh hưởng đến số lượng đơn đặt hàng mới vào cuối quý I.
Tuy nhiên, cả tổng số lượng đơn đặt hàng mới và số lượng đơn đặt hàng xuất khẩu mới đều tăng trong 6 tháng liên tiếp. Việc sử dụng hàng tồn kho đã giúp đáp ứng yêu cầu đơn hàng trong điều kiện khó tăng sản lượng. Tình trạng này khiến tồn kho hàng thành phẩm đã giảm lần đầu tiên trong 3 tháng.
Đáng chú ý, tốc độ tăng chi phí đầu vào đã nhanh hơn và đạt mức tăng nhanh nhất trong gần 11 năm. Hơn nửa số người trả lời khảo sát cho biết giá cả đầu vào của doanh nghiệp đã tăng so với tháng trước, và nguyên nhân được nhắc tới là chi phí dầu và khí đốt tăng. Giá nguyên vật liệu và chi phí vận chuyển tăng cũng được nhắc đến.
Để bù đắp, các nhà sản xuất đã tăng nhanh hơn giá bán hàng. Trên thực tế, tốc độ tăng giá là nhanh nhất kể từ tháng 11 năm ngoái khi mức cao của mười năm rưỡi được ghi nhận.
Mặc dù hoạt động mua hàng tăng nhẹ trong tháng 3, tốc độ tăng đã chậm lại nhiều và là mức tăng yếu nhất trong thời kỳ tăng kéo dài 6 tháng gần đây. Tồn kho hàng mua cũng tăng ở mức khiêm tốn. Trong bối cảnh yêu cầu sản xuất hiện tại giảm, tình trạng tăng hàng chủ yếu phản ánh những nỗ lực tăng hàng dự trữ.
Một loạt các nhân tố dẫn đến kéo dài thời gian giao hàng của nhà cung cấp trong tháng 3, bao gồm những ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 như thiếu hụt lao động và những hạn chế tại biên giới với Trung Quốc. Chiến tranh ở Ukraine cũng góp phần gây chậm trễ giao hàng, và thời gian giao hàng nhìn chung bị kéo dài với mức độ cao nhất kể từ tháng 10 năm ngoái.
Mức độ trầm trọng của làn sóng đại dịch Covid-19 mới nhất và những lo lắng về áp lực lạm phát đã làm giảm kỳ vọng về tương lai. Niềm tin kinh doanh đã giảm thành mức thấp nhất trong 6 tháng. Tuy nhiên, các công ty vẫn lạc quan rằng sản lượng sẽ tăng trong năm tới dựa trên hy vọng rằng đại dịch sẽ suy yếu và số lượng đơn đặt hàng mới sẽ tăng.
Minh Đức