Đây là một chỉ dấu về thời kỳ tăng trưởng kinh tế èo uột của Trung Quốc có thể sẽ kéo dài.
Theo Michael Taylor, Giám đốc Moody’s tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương, tỷ lệ các chủ nợ của Trung Quốc có suy nghĩ tiêu cực đã tăng lên mức cao kỷ lục 69%. Tỷ lệ này đã tăng 15,7% vào cuối năm ngoái và 33,3% vào cuối tháng 3-2016. Tỷ lệ cao nhất trước đó được ghi nhận 45,5% vào tháng 5- 2009 khi nền kinh tế Trung Quốc bị liên đới do hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính. Trên thực tế, mối nghi ngại về sức khỏe của các công ty Trung Quốc đã được “đánh tiếng” từ tháng 3 sau khi cả Moody’s và S&P’s đã đánh tụt triển vọng xếp hạng tín dụng của Trung Quốc từ ổn định xuống tiêu cực. Động thái này đã phản ánh sự xói mòn sức mạnh tài chính, sự sụt giảm về dự trữ ngoại hối do dòng vốn chảy khỏi Trung Quốc và sự quan ngại của các nhà đầu tư về khả năng thực hiện cải cách triệt để của Bắc Kinh. Sự èo uột của các công ty là một đòn mạnh giáng vào sự phát triển nền kinh tế Trung Quốc.
Vừa qua, bên lề hội nghị do Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) chủ trì tại Brussels (Bỉ), giới quan chức của hơn 30 quốc gia lên tiếng quan ngại trước nguy cơ Trung Quốc, nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới, đang tiệm cận cuộc khủng hoảng tài chính. Tờ Financial Times cho biết các dấu hiệu và triệu chứng khá rõ ràng và liên tục. Trong hơn 1 thập niên qua, sự gia tăng đột biến của tỷ lệ nợ so với GDP (từ 150% lên gần 260%), lượng tiền mặt bơm vào lưu thông lên tới 800 tỷ USD trong vòng 2 năm thông qua các gói kích cầu đã khiến giới quan sát lo ngại sâu sắc về một cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính đang cận kề mà phạm vi và mức độ thiệt hại sẽ gấp nhiều lần năm 2008. Đối với thị trường vốn, cú sốc năm 2015 đã khiến chính phủ nước này phải chi gần 400 tỷ USD để vực dậy thị trường chứng khoán. Nguyên nhân nằm ở sự tăng trưởng giá trị vốn hóa quá nóng của thị trường chứng khoán: tăng gần gấp đôi trong 2 năm trước. Điều đó được dẫn chứng qua việc dù đã áp dụng sáng kiến cơ chế tự ngắt để ngừng giao dịch nếu thị trường rớt giá hơn 7%, nhưng đã không thể ngăn đà lao dốc khiến 4.500 tỷ USD vốn hóa bị bốc hơi hồi giữa năm ngoái.
Để tránh cơn chao đảo và hiệu ứng domino đến từ sụt giảm giá trị các cổ phiếu niêm yết và bong bóng bất động sản xì hơi gây ảnh hưởng đến các tài sản thế chấp trong hệ thống ngân hàng, nhà điều hành Trung Quốc buộc phải can thiệp hành chính bằng việc bơm thêm tiền. Tính hết năm 2013, lượng cung tiền đã đạt tới 17.770 tỷ USD. Con số bơm tiền vào lưu thông này cao gấp 4 lần so với thời điểm 10 năm trước đó là dấu hiệu cho thấy chính phủ đang in tiền nhanh hơn tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Trong khi đó, GDP Trung Quốc cả năm 2015 đạt hơn 10.000 tỷ USD, tăng 6,9% (tương đương tăng 439 tỷ USD), mức chậm nhất trong vòng 25 năm qua.
Mặc dù những lo ngại ngày càng tăng, Moody’s cho biết Trung Quốc vẫn có khả năng tránh cuộc khủng hoảng về tài chính bởi trên thực tế, với sự hỗ trợ tối đa của chính phủ Trung Quốc, hệ thống ngân hàng nước này đủ sức chống chọi được với cơn bão khủng hoảng tài chính.
VT