Tại Hội thảo “Đánh giá 5 năm thực hiện Nghị quyết 19 và giới thiệu Nghị quyết 02 về cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh” ngày 22/1, bà Nguyễn Minh Thảo, Trưởng ban Môi trường Kinh doanh và Năng lực cạnh tranh, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), đánh giá môi trường kinh doanh được cải thiện cả về điểm số và thứ hạng, so với năm 2015, thứ hạng của Việt Nam đã tăng 21 bậc.
Muốn phá sản... cũng khó
6 chỉ số tăng hạng bao gồm: Tiếp cận điện năng tăng 108 bậc, lên thứ 37; nộp thuế và bảo hiểm tăng 42 bậc lên thứ 131; bảo vệ nhà đầu tư tăng 28 bậc lên thứ 89; khởi sự kinh doanh tăng 21 bậc lên thứ 104; tiếp cận tín dụng tăng 4 bậc lên thứ 32 và cấp phép xây dựng tăng 1 bậc lên thứ 21.
Ngược lại, 4 chỉ số giảm hạng là: Đăng ký tài sản giảm 17 bậc từ thứ 33 xuống 60; thương mại qua biên giới giảm 7 bậc theo cách tính cũ, giảm 25 bậc theo cách tính mới xuống thứ 100; giải quyết tranh chấp hợp đồng giảm 15 bậc xuống thứ 62 và giải quyết phá sản doanh nghiệp (DN) giảm 29 bậc xuống thứ 133.
Tuy vậy, bà Thảo cho rằng thứ hạng các chỉ số môi trường kinh doanh của Việt Nam còn rất thấp, hiện đứng thứ 69 thế giới và đứng thứ 5 trong ASEAN, cách xa so với Singapore (đứng thứ 2), Malaysia (15), Thái Lan (27) và Brunei (55).
Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết 19, môi trường kinh doanh của Việt Nam vẫn bộc lộ những hạn chế như chủ yếu tập trung vào các vấn đề được DN phản ánh thường xuyên, liên tục; các chỉ tiêu gián tiếp chưa được chú trọng cải thiện, một số chỉ tiêu không có chuyển biến.
Nguyên nhân là do sự phối hợp giữa các bộ ngành, DN với địa phương còn chưa chặt chẽ, chủ động và một số cải cách còn mang tính hình thức, chưa thực chất, thái độ cán bộ, công chức thực thi nhiệm vụ chưa tích cực.
Hướng tới giảm tối đa tiếp xúc trực tiếp giữa người dân và công chức |
Sợ kiểm tra, thanh tra
Ts. Nguyễn Đình Cung, Viện trưởng CIEM, cho rằng trong số 10 chỉ số về môi trường kinh doanh, có hai chỉ số đặc biệt quan trọng là giải quyết tranh chấp hợp đồng và phá sản DN, hai chỉ số này đang bị xuống hạng và ở mức thấp.
“Nếu không cải thiện hai chỉ số trên, chắc chắn chúng ta không lên được top ASEAN 4. Tôi nghĩ hai lĩnh vực này rất quan trọng, cần có áp lực đủ lớn mới thay đổi được”, ông Cung nhấn mạnh.
Ông Đậu Anh Tuấn, Trưởng Ban Pháp chế (Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam – VCCI), cho biết tỷ lệ DN bị kiểm tra chồng chéo, trùng lặp khá nhiều, đặc biệt là kiểm tra của các bộ. DN càng nổi tiếng, càng to sẽ càng bị kiểm tra nhiều; riêng các DN sản xuất hàng tiêu dùng bị kiểm tra rất nhiều.
Ông Tuấn kiến nghị năm 2019 và những năm tới cần đặt ra yêu cầu tiêu chuẩn, tiêu chí nào để ban hành điều kiện kinh doanh, đồng thời cần có cơ chế kiểm soát điều kiện kinh doanh.
Số liệu từ CIEM cũng cho thấy, tỷ lệ thực hiện các dịch vụ công trực tuyến rất thấp, chỉ chưa đến 7%, ứng dụng được coi là chưa thuận lợi cho người dân, Cổng dịch vụ công quốc gia chưa vận hành.
Bà Trịnh Tú Anh, Giám đốc công ty TNHH thương mại và dịch vụ An Đô, chia sẻ hiện nay đã triển khai thực hiện thủ tục hải quan bằng phương thức điện tử nhưng DN vẫn phải nộp hồ sơ giấy. Đồng thời, về hoàn thuế, DN cung cấp hồ sơ 4 lần nhưng gần một năm mới được nhận tiền.
Để giải quyết bất cập trên, ông Cung cho rằng phải triển khai song song thanh toán điện tử và dịch vụ công trực tuyến. Làm sao giảm tối đa tiếp xúc trực tiếp giữa người dân và công chức, bởi trên thực tế tiếp xúc trực tiếp là cơ hội để cán bộ vòi vĩnh DN, phát sinh tham nhũng vặt.
Theo ông Cung, hệ thống hiện nay vừa thực hiện song song bằng điện tử và giấy, vì thế nhiều nơi không muốn bỏ giấy tờ, cố gắng yêu cầu có giấy tờ để làm khó DN.
“Các cơ quan nhà nước khó có thể tự thay đổi. Không thể ngồi chờ họ thay đổi mà phải tạo áp lực cho họ thay đổi”, ông Cung nhấn mạnh.
Thy Lê