Trong bối cảnh đó, Trung tâm Xúc tiến Đầu tư, Thương mại, Du lịch trực thuộc UBND Tp.Hà Nội (Trung tâm HPA) và Nhóm dự án hỗ trợ nông dân làm RAT của Tổ chức JICA (Nhật Bản) vừa phối hợp tổ chức hội nghị kết nối cung cầu RAT trên địa bàn Thủ đô.
Thương lái chi phối RAT
Đến từ tỉnh Hưng Yên, ông Nguyễn Hữu Hưng - Giám đốc HTX Nông nghiệp Yên Phú (huyện Yên Mỹ), cho biết HTX có 15,5ha rau trên tổng số 250ha đất canh tác, đạt sản lượng mỗi năm 810 tấn rau củ quả các loại.
HTX áp dụng quy trình giám sát VietGap. Thế nhưng, ngoài lượng rau HTX tự thu gom, sơ chế và tự bán vào các bếp ăn và các cửa hàng RAT, việc tiêu thụ chủ yếu vẫn phải qua kênh thương lái đến mua buôn.
Bà Nguyễn Thị Thoa - Trưởng phòng Trồng trọt (Sở NN&PTNT Tp.Hà Nội), cho biết đất rau của thành phố phân bố ở 22 huyện, quận và thị xã, với khoảng 12.000ha, sản lượng gần 600.000 tấn/năm, đáp ứng 60% nhu cầu thị trường Thủ đô, còn 40% lấy từ các tỉnh như Vĩnh Phúc, Hưng Yên, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hải Dương, Lào Cai, Hòa Bình…
Thành phố hiện có 6 hình thức tiêu thụ RAT: Bán cho các siêu thị 1,5% tổng sản lượng, cửa hàng bán lẻ 1,5%, giao theo hợp đồng 1,8%, thương lái thu gom 12,6%, người dân tự bán tại các chợ chiếm 26,8%, bán buôn tại các chợ đầu mối chiếm 55,8%.
Theo bà Thoa, việc quản lý cung cầu RAT rất khó khăn, bởi tỷ lệ tiêu thụ thông qua hợp đồng với HTX và DN quá nhỏ và do nông dân sản xuất nhỏ lẻ, phân tán, số hộ làm rau rất lớn, tới trên 200.000 hộ.
Nhân lực, kinh phí cho công tác hướng dẫn và kiểm nghiệm an toàn thực phẩm chưa đáp ứng yêu cầu, nên rất khó kiểm soát việc chấp hành các quy định của cơ sở sản xuất và thiếu thông tin cho DN, người tiêu dùng (NTD).
NTD khó mua được RAT có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Người sản xuất chưa bán được RAT theo đúng giá trị. Trong khi có rất ít DN tiêu thụ, thì HTX nông nghiệp hầu như không có vai trò tiêu thụ RAT cho nông dân.
![]() |
Chuyên gia JICA chia sẻ kinh nghiệm kết nối cung cầu RAT
NTD thiếu lòng tin với RAT khi không thể phân biệt RAT với rau không an toàn bằng cảm quan, chỉ phân biệt được khi có tem nhãn nhận diện của các DN. Nhưng, có rất ít DN tham gia do lợi nhuận thấp, rủi ro cao.
Ông Trịnh Danh Tùng - Giám đốc HTX rau Lĩnh Nam (Hà Nội), bộc bạch: “Tôi đến hội nghị tìm kiếm cơ hội tiêu thụ RAT cho vùng rau Lĩnh Nam và Liên hiệp HTX tiêu thụ RAT Hà Nội, tìm công nghệ mới sản xuất rau, nhằm bảo đảm sức khỏe cho người sản xuất và NTD. Trong thực trạng sản xuất rau mất an toàn hiện nay, các cấp chính quyền chưa làm hết trách nhiệm quản lý, chưa làm cho người dân thấy được lợi ích lớn làm RAT”.
An toàn cho người làm RAT
Ông Tùng cho biết, ở vùng rau Lĩnh Nam, trước năm 1999 ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Song từ năm đó, HTX đã triển khai dự án xây dựng vùng RAT, vận động người dân sản xuất RAT để bảo vệ chính sức khỏe của mình.
Thực ra, người làm rau suốt ngày ở ruộng rau. Nếu phun thuốc sâu hóa học, thì chính họ phải chịu 90 - 95% tính độc hại, còn người ăn rau chỉ phải chịu 5 - 10% dư lượng độc tố còn lại. Bởi thế, việc chuyển đổi sang sản xuất RAT là nghĩa vụ và quyền lợi của người làm rau.
Theo bà Nguyễn Thị Mai Anh - Phó Giám đốc Trung tâm HPA, với trên 10 triệu dân đang sinh sống và mỗi năm có trên 21 triệu lượt khách du lịch, Hà Nội cần lượng lương thực, thực phẩm an toàn rất lớn, trong khi đó, khả năng sản xuất tại chỗ chỉ đảm bảo khoảng 55 - 60% tổng nhu cầu.
Tuy nhiên, hiện nay các sản phẩm Hà Nội nhập từ các tỉnh chủ yếu do thương lái thu gom về các chợ đầu mối (chiếm 75 - 80%). Sau đó được chuyển đi các chợ dân sinh, cửa hàng… Do đó, công tác quản lý chất lượng nông sản thực phẩm rất khó khăn.
Đại diện Trung tâm HPA cho rằng mục tiêu cuộc kết nối cung cầu RAT lần này là tạo cơ hội các cơ sở sản xuất tiêu biểu ở các tỉnh Hà Nam, Hưng Yên, Hải Dương… và các DN, HTX cung ứng của Hà Nội có dịp giới thiệu các sản phẩm RAT đến các kênh tiêu dùng có uy tín.
Đây cũng là cơ sở để các cấp ngành quản lý nắm bắt thông tin, kiểm soát tốt hơn các sản phẩm an toàn được sản xuất và phân phối trên địa bàn Thủ đô.
Lưu Đoàn