Ngay sau thời điểm thành lập, tháng 10/2016, HTX đã bắt tay ngay vào thí điểm 4 ao nuôi tôm thẻ chân trắng trên ao lót bạt theo công nghệ Biofloc. Đây là công nghệ đã được nhiều nước trên thế giới áp dụng thành công.
Phương pháp ưu việt
Theo công nghệ này, quy trình nuôi được chia làm 2 giai đoạn. Giai đoạn một, tôm được ươm trong nhà lưới từ 20 - 25 ngày với mật độ khoảng 1.000 - 3.000 con/m2. Giai đoạn hai, tôm được chuyển qua ao nuôi ngoài trời thông qua hệ thống ống xả.
Công nghệ này mang lại hiệu quả ưu việt hơn hẳn cách nuôi truyền thống là thời gian nuôi nhanh, giảm thiểu được chi phí thức ăn, nuôi tôm sạch, không sử dụng hoá chất, không sử dụng kháng sinh theo quy trình VietGAP, tôm bán được giá cao.
Ngay từ vụ thả nuôi đầu tiên, các thành viên của HTX đều vui mừng vì những thành quả do công nghệ mang lại. Ông Hồ Văn Khen - một thành viên của HTX, cho biết nhà ông có 1.800m2 đầm tôm. Vụ vừa qua, ông thả nuôi tôm mật độ cao, khoảng 250 con/m2, thời gian khoảng hơn 80 ngày, cuối vụ thu hoạch hơn 9 tấn, trọng lượng khoảng 52 con/kg. Với giá bán vào thời điểm đó khoảng trên 145.000 đồng/kg, sau khi trừ các khoản chi phí, ông thu được 500 triệu đồng.
Nuôi tôm theo công nghệ Biofloc là một trong những công nghệ hiện đại có vốn đầu tư lớn, tôm được thả nuôi với mật độ cao, các yếu tố môi trường được khống chế, hạn chế đến mức thấp nhất ảnh hưởng của bên ngoài đến ao nuôi, tạo điều kiện thuận lợi cho tôm sinh trưởng và phát triển tốt. Ưu điểm là chất thải của tôm trong quá trình nuôi được xử lý triệt để, không ảnh hưởng đến môi trường nước ao nuôi và xung quanh.
![]() |
Mô hình nuôi tôm của HTX được lãnh đạo địa phương đánh giá cao
Nuôi tôm theo công nghệ biofloc là thay vì nuôi tảo, người ta tạo môi trường nuôi các vi khuẩn dị dưỡng có lợi, phân hủy chất thải trong ao nuôi thành cơ chất mà tôm có thể sử dụng lại; không tạo thuận lợi cho vi sinh vật gây bệnh phát triển.
Trong môi trường ao nuôi luôn hiện diện vi khuẩn dị dưỡng. Chúng có khả năng đồng hóa chất thải hữu cơ, chuyển thành sinh khối của vi khuẩn (thường rất giàu protein) trong thời gian rất ngắn mà không cần ánh sáng như các loại tảo.
Tiết kiệm chi phí xử lý môi trường
Nếu được giữ lơ lửng liên tục trong nước, khi đã đạt mật độ nhất định, các vi khuẩn sẽ kết dính với nhau thành những hạt nhỏ, gọi là floc. Các hạt floc này có giá trị dinh dưỡng cao, có thể dùng làm thức ăn cho tôm.
Do nước ao nuôi tôm rất giàu chất thải hữu cơ nên dẫn đến tình trạng ni tơ (N) thừa, các bon (C) thiếu so với nhu cầu của vi khuẩn. Công nghệ Biofloc tạo thuận lợi để vi khuẩn dị dưỡng phát triển mạnh bằng cách bổ sung nguồn C rẻ tiền vào môi trường ao để cân đối với hàm lượng N có sẵn.
Việc bổ sung đủ C sẽ giúp vi khuẩn phát triển, sử dụng hết chất thải hữu cơ, chuyển hóa amoniac, làm sạch môi trường. Nguồn C hữu cơ có thể dùng để bổ sung vào ao nuôi thường là Glucose, Ccetate hoặc Glycerol.
Việc sử dụng các hệ thống quạt nước hoặc sục khí trong ao nuôi hết sức quan trọng, để có thể giữ cho vi khuẩn và các hạt floc lơ lửng trong nước, cung cấp đủ ôxy hòa tan cho hoạt động trao đổi chất của vi khuẩn. Chính vì thế, công nghệ Biofloc tiêu tốn năng lượng và thích hợp mô hình nuôi thâm canh hơn quảng canh. Tuy nhiên, chi phí gia tăng về năng lượng có thể được bù đắp nhờ tiết kiệm chi phí thức ăn và xử lý môi trường.
Mô hình nuôi tôm của HTX được lãnh đạo địa phương đánh giá cao. Ông Huỳnh Diện - Giám đốc HTX, cho biết tính đến thời điểm này, HTX có 19 thành viên, tổng diện tích nuôi tôm công nghiệp khoảng 6,6 ha với 39 ao nuôi.
Mục tiêu của HTX là đẩy mạnh ứng dụng khoa học - kỹ thuật, tạo sự liên kết cộng đồng, nâng cao năng suất và hiệu quả sản xuất. Nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng, vụ tôm chính năm 2017, theo dự kiến mỗi thành viên sẽ thực hiện một đầm nuôi theo công nghệ Biofloc, sau đó sẽ tiếp tục mở rộng vùng nuôi, đến năm 2018 sẽ phát triển lên quy mô 200 ao.
Thu Hường