Một ngày giá rét giáp Tết Mậu Tuất, từ Hà Nội, qua thị trấn huyện Sóc Sơn chừng hơn 20km nữa theo tỉnh lộ, rồi đường liên xã gập ghềnh, chiếc xe bán tải đưa chúng tôi tới vườn dược liệu.
Rời xa thị thành, rời xa khu dân cư, vườn dược liệu ẩn mình trong không gian tĩnh lặng của núi rừng, không khí thoáng đãng và thời gian cũng như ngưng đọng tại nơi này.
“Thuốc tiên” trồng ở chốn này
Chủ nhân khu vườn, chị Nguyễn Thanh Tuyền trong trang phục khỏe khoắn - quần jean, áo phao, giầy thể thao, trông trẻ hơn tuổi 50 lanh lẹ đưa tôi đi thăm vườn.
Đầu tiên là một khu vườn nhỏ chừng vài trăm mét vuông là vườn trồng mẫu, trên từng luống đất đều có bảng hiệu gắn tên từng loại dược liệu, từ gần gũi đời thường như cây hoa hồng đến cao sang như Trà hoa vàng…
Thật sự thì tôi hoa mắt vì không thể biết được tên của các loài cây trong vườn (ngoài cây hồng có gai dễ nhận biết nhất), tất cả phải trông chờ vào sự thuyết minh của chị Tuyền.
Chị nói về cây dược liệu như một người mẹ khi nói về những đứa con của mình. Nào đây là Kim ngân, kia Kỷ tử; nào đây là cây hoa Sói, cây Mộc, cúc đinh hương… Mỗi cây trị mỗi bệnh cứu người.
Đặc biệt nhất là cây Trà hoa vàng cho hoa chữa các bệnh về tim mạch, cao huyết áp, đây là loại dược liệu quý hiếm không chỉ ở nước ta mà cả thương nhân Trung Quốc và Nhật Bản đều đang săn lùng mua về làm thuốc. Bởi thế mà giá Trà hoa vàng rất cao, thấp nhất là loại 10 triệu đồng còn cao nhất là loại 30 triệu đồng mỗi ký hoa, thị trường khan hiếm, hàng không bao giờ đủ bán…
“Tôi đã tìm được lẽ sống tại đây. Nếu thất bại, tôi sẽ làm lại từ đầu, vẫn với dược liệu hữu cơ”
Đi khỏi vườn mẫu, chúng tôi trèo lên đồi cao để tới cánh đồng 7ha trồng dược liệu. Từ dưới chân đồi, một hồ nhỏ đón nước từ suối nguồn trữ lại để máy bơm đưa nước vào hệ thống vòi tưới len lách đến từng luống cây đang thâm canh.
Khung cảnh đã trở nên hoành tráng hơn, cây Kim ngân phủ xanh miết lối đi và hàng hàng, luống luống cây Trà hoa vàng đang vươn lên từ đất, mới cao ngang thắt lưng người. Đây là loài cây có giá trị kinh tế cao nhất nên chị Tuyền đã dành ra 3ha để trồng.
Toàn bộ cánh đồng 7ha này được che chắn xung quanh bằng rào kẽm và hệ thống giàn lưới trời để che đỡ cho cây khỏi bị mưa giông tàn phá. Thêm nữa, dưới toàn bộ các luống đất trồng cây là những dải nilon màu đen trải dài như tấm lụa lớn che phủ mặt đất, chỉ có lỗ hổng cho thân cây vươn lên.
Chị Tuyền giải thích cây dược liệu chẳng khác gì những đứa trẻ non nớt, sức khỏe dễ bị tổn thương trước mưa gió, cho nên lưới cao là để ngăn mưa xối xuống, còn nilon dưới đất là ngăn cỏ dại ăn lấn đất màu của cây non.
Cơ ngơi của chị Tuyền bây giờ quả là một kho báu khi khu vườn này đang ươm trồng gần 100 loại dược liệu thông dụng. Còn quý hơn khi nó đang lưu giữ tới 22/30 loại thảo dược đặc chủng của Việt Nam đang trong tình trạng tuyệt chủng phải bảo tồn.
Trong đó, đặc biệt quý hiếm là Lan kim tuyến đỏ, Thất diệp nhất chi hoa, Hoàng thảo kèn (từ miền núi Sìn Hồ, Lai Châu về), hay như Thạch hộc tía, Ngải rắn, Ngải đen (từ miền đất bảy núi tận An Giang ra)… cũng theo chân chị Tuyền góp mặt trong vườn.
Bốn năm qua, từ con số không giữa một vùng đồi núi hoang sơ không trồng cấy được gì, nay vườn dược liệu đã có tiếng vang đến các cơ quan y tế và nghiên cứu khoa học.
Chị Tuyền cho hay Viện Hóa Dược và Viện Đào tạo và ứng dụng Khoa học công nghệ thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Công nghệ Việt Nam đã cử cán bộ đến tận vườn nghiên cứu và hỗ trợ trong việc chăm sóc thảo dược và nghiên cứu hóa dược.
Hiện đã có hai công ty dược phẩm ở Hà Nội là công ty CP Dược phẩm Hoàng Giang và công ty CP Dược liệu Indochina “chịu chơi” dược liệu hữu cơ giá cao, ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm của vườn.
Còn trong năm, một số chuyên gia y tế của Nhật Bản đã tìm đến và đặt hàng Trà hoa vàng ngay cả khi phải chờ hàng năm nữa mới tới mùa thu hái.
Chị Tuyền cũng tỏ ra rất cảm kích, biết ơn chính quyền huyện Sóc Sơn đã tạo thuận lợi cho mình về đây lập nghiệp, như giảm giá thuê đất, hỗ trợ làm đường bê tông nối từ đường liên xã đến vườn, hỗ trợ phân bón hữu cơ, hỗ trợ làm hệ thống tưới và gần đây nhất là hỗ trợ dựng lại hệ thống giàn che mưa sau những trận giông tố.
Khổ công đào luyện có ngày khai hoa
Bốn năm trước, chị Tuyền cũng không ngờ cơ duyên nào đã đưa đẩy chị, đang làm việc trong Hội Dược liệu tỉnh Đồng Nai mà lại lặn lội dặm trường để đến với miền đất Sóc Sơn này.
Chị chỉ nhớ là qua học tập, làm nghề thảo dược nhiều năm, chị lờ mờ nhận biết được vùng đất Sóc Sơn và có niềm tin rằng nơi đây sẽ là miền “đất hứa” của dược liệu.
Khi chị Tuyền đến đây, còn chưa có đường, chị phải vạch lá rừng mà đi thăm đất. Rồi ý tưởng về một vùng thảo dược hun đúc quyết tâm đầu tư, dựng cơ đồ của chị. Thuở ban đầu, cũng rất đáng trân trọng, chị có một số bạn hữu, nghe theo chị và cùng nhau hùn vốn tạo lập khu vườn.
“Tổng vốn đầu tư của chúng tôi cho khu vườn lên tới 6 tỷ đồng. Không vay ngân hàng, toàn vốn bạn bè góp”, chị Tuyền cho biết.
Trong những người chung lưng đấu cật với chị có cả những người bạn mới trên đất Bắc, ở ngay huyện Sóc Sơn. Chị Tuyền không giấu giếm chia sẻ.
Tuy nhiên, mọi việc không hề dễ dàng. Khi lập khu vườn, chị tâm niệm phải là thảo dược hữu cơ. Vì đã là thuốc chữa bệnh cho người là cái gốc, lại càng phải sạch và an toàn. Chị bảo nếu trồng thảo dược kiểu thị trường như người ta lấy nhiều, nhanh, lợi nhuận cao làm đầu thì đâu cần đến chị mà người đời đã làm từ lâu rồi, dược liệu không an toàn, kém chất lượng ấy đã tràn ngập thị trường rồi.
Nhìn ra vườn, thấp thoáng bóng mấy chị công nhân làm việc. Lặng lẽ nhặt cỏ, nhẹ nhàng hứng từng nụ hoa, dường như không vội vã, không ồn ào, họ đang dồn tâm trí vào công việc… Những nụ hồng, cúc đinh hương bé xíu, hay tỉ mỉ hơn là những hạt hoa mộc trắng li ti như tấm gạo, tất cả cần đến bàn tay khéo léo của con người.
Theo chị Tuyền, làm dược liệu hữu cơ phải hoàn toàn nói không với chế phẩm hóa học, thuốc trừ sâu, diệt cỏ, với phân ure. Bởi vậy mà mọi công đoạn từ chăm ươm đến thu hái đều thực hiện bằng bàn tay con người, từ nhổ cỏ dại cho đến thu lượm sản phẩm. Đất cũng phải là nơi chưa từng bị khuấy động bởi hóa chất công nghiệp, được khai hóa và phục hồi bằng xác cây đậu tương…
Ở vườn thảo dược hữu cơ của chị Tuyền, mỗi loài dược liệu chỉ cho thu hoạch đúng mùa vụ, số lượng không thể có nhiều như cây được bón thúc thuốc tăng trưởng.
Ví như cây Trà hoa vàng, trồng 4 năm thì năm thứ 5 mới cho hoa. Mỗi cây lại chỉ có số hoa đếm được trên đầu ngón tay, mỗi nụ hoa ấy từ lúc nảy nụ đến khi hái được phải đợi 10 tháng, khác nào đứa con mang nặng đẻ đau trong lòng người mẹ…
Tôi hỏi chị bị áp lực như thế nào về tài chính khi làm dược liệu hữu cơ vốn nhiều, lời ít, rủi ro cao? Chị Tuyền cho biết là đến nay, khu vườn chưa có lợi nhuận gì đáng kể. Nhưng cái được nhất là chị đã có khu vườn, đã truyền được cảm hứng cho 10 chị em công nhân.
Bạn hàng thân thiết đã đến. Họ đã đưa một số sản phẩm của vườn ra thị trường và được người tiêu dùng đón nhận. Nhờ thế mà chị Tuyền trả được lương cho chị em làm trong vườn mỗi người 5 triệu đồng/tháng; nhờ thế mà chị đã không phải nợ tiền thuê đất, cũng tới 50 triệu đồng/năm; nhờ thế mà chị sống được tới hôm nay trên đất núi Sóc Sơn.
Còn về tương lai, chị Tuyền cho biết sẽ thuê thêm đất để mở rộng cánh đồng dược liệu thêm 10ha nữa. Chị cũng ao ước rằng mỗi gia đình nông dân Việt Nam, từ mảnh vườn của mình tự trồng dược liệu hữu cơ để chăm sóc sức khỏe, cớ sao cứ phải mua dược liệu của nước ngoài!
Công Huyền