Nghề sản xuất miến truyền thống Chi Lăng hình thành từ khoảng năm 1980, do những người dân ở một số tỉnh như Bắc Ninh, Bắc Giang, Ninh Bình… vào Đăk Lăk lập nghiệp mang theo. Từ năm 2006 đến nay, làng nghề này phát triển mạnh, nhiều hộ gia đình đầu tư mua sắm máy móc chuyên dụng, mở rộng quy mô sản xuất, đa dạng hóa sản phẩm miến gạo, bún sợi, phở khô...
Bảo đảm an toàn tuyệt đối
Hiện, toàn phường đã có trên 50 hộ dân làm nghề, tập trung nhiều nhất tại các tổ dân phố 1, 3, 5, 6 và 7 và đều mang thương hiệu sản phẩm hàng hóa Chi Lăng. Nghề truyền thống này là niềm tự hào của người dân nơi đây bởi nó đã làm thay đổi cuộc sống bao gia đình. Gắn bó với nghề đã lâu nên hầu hết người làm miến dong đều hiểu nỗi vất vả, nhọc nhằn để làm nên thành phẩm, bởi tất cả các công đoạn sản xuất đều rất tỷ mỷ và bảo đảm an toàn lao động (ATLĐ) tuyệt đối.
Công đoạn phơi miến trong mái che nilon |
Chị Nguyễn Thị Tâm ở tổ dân phố 1 cho biết nghề làm miến, bún, phở khô ngày nay không còn nặng nhọc, vất vả nữa. Quá trình sản xuất trải qua 4 công đoạn: chọn gạo, ngâm, sau đó vớt ra đưa vào máy cán sợi (tùy theo kích cỡ của sản phẩm), đem phơi nắng chừng nửa ngày là thành phẩm.
Nghề làm miến, bún, phở khô Chi Lăng sản xuất quanh năm, nhưng nhộn nhịp nhất là vào khoảng thời gian 2 tháng trước Tết Nguyên đán. Các hộ sản xuất ở đây đều phải làm cật lực mới kịp giao hàng. Có thâm niên trong nghề này hơn 15 năm nay, anh Vũ Quốc Phong ở tổ dân phố 1 cho biết những tháng trước, hai vợ chồng anh làm mỗi ngày chỉ được khoảng 2 tạ gạo, cho ra sản phẩm khoảng 1,8 tạ.
Nhưng những tháng cuối năm, anh làm tăng lên 4 tạ gạo/ngày và phải thuê thêm 2 nhân công nữa, vừa phơi vừa đóng gói sản phẩm mới kịp. Mặc dù làm ngày, làm đêm nhưng ra đến đâu là hết đến đó. Thời điểm hiện tại có nhiều đơn hàng, nhưng sợ không làm kịp nên gia đình chưa dám nhận thêm.
Trước kia, các hộ làm nghề sản xuất miến dong chủ yếu theo kiểu thủ công, truyền thống nên năng suất thấp. Đến nay, một số công đoạn làm miến dong đã được các hộ đầu tư máy móc thiết bị như: thùng inox đựng bột, máy khoắng, máy ép thủy lực… Không những giúp cho năng suất cao hơn, sợi miến đều, đẹp hơn, tiết kiệm được sức lao động mà còn góp phần bảo đảm an toàn thực phẩm, ATLĐ tốt hơn.
Bên cạnh đó, chính quyền địa phương cũng thường xuyên kiểm tra, tuyên truyền các hộ làm nghề phải thực hiện nghiêm các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm và ATLĐ từ khâu nhập nguyên liệu đến chế biến, đóng gói sản phẩm.
Làm giàu từ miến
Vươn lên làm giàu nhờ nghề làm miến, bún, phở khô truyền thống, bình quân mỗi tháng, gia đình anh Hà Văn Tuyến ở tổ dân phố 6 thu lãi khoảng 30 triệu đồng. Theo anh Tuyến, mặc dù việc sản xuất miến, bún, phở khô trong những năm qua luôn có đầu ra ổn định, song giá cả còn bấp bênh, sản phẩm chủ yếu chỉ bán ở các chợ, cửa hàng nhỏ lẻ.
Để khẳng định được thương hiệu và chất lượng cao cho sản phẩm làng nghề truyền thống, anh Tuyến đã đứng ra đề xuất với UBND phường Khánh Xuân thành lập HTX Nông nghiệp sản xuất bún, miến, phở khô Chi Lăng. Từ tháng 10/2019, HTX đã chính thức đi vào hoạt động và hiện nay đã có 9 hộ đăng ký tham gia.
Hiện nay, sản phẩm miến, bún, phở khô Chi Lăng đã có được thương hiệu khá nổi trên thị trường, đầu ra thuận lợi. Để bảo đảm chất lượng sản phẩm sạch, an toàn, các hộ làm miến, bún, phở khô Chi Lăng đều có cam kết với chính quyền địa phương là không sử dụng hàn the, thuốc tẩy hay các chất phụ gia độc hại, luôn bảo đảm các yêu cầu về an toàn vệ sinh thực phẩm, ATLĐ.
Ông Nguyễn Xuân Thăng, Phó Chủ tịch UBND phường Khánh Xuân khẳng định nghề làm bún, miến, phở khô Chi Lăng không những góp phần xóa đói giảm nghèo mà còn giúp nhiều hộ làm giàu.
Cùng với làm nghề, nhiều gia đình còn kết hợp chăn nuôi heo, gà để tận dụng nguồn thức ăn từ phụ phẩm dư thừa như nước vo gạo, miến gãy nát… vừa tăng thêm thu nhập, lại bảo đảm khâu vệ sinh môi trường. Đặc biệt, làng nghề Chi Lăng còn giải quyết công ăn việc làm cho gần 200 lao động nhàn rỗi ở địa phương với mức thu nhập bình quân mỗi tháng từ 4 - 4,5 triệu đồng/người.
Tiến Minh