Lúa gạo là một ngành nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, có tiềm năng lớn trong bối cảnh toàn cầu chuyển hướng sang sản xuất nông nghiệp bền vững và phát thải thấp. Tại Hội nghị triển khai Chương trình tín dụng ưu đãi thực hiện Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp, ông Lê Thanh Tùng, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt, cho biết để sản xuất 2,4 triệu tấn lúa mỗi năm tại Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), vùng này cần nguồn vốn khoảng 10 tỷ USD/năm, từ chi phí thu mua đến chế biến.
Doanh nghiệp, HTX đều cần vốn
Tuy nhiên, cả doanh nghiệp và hợp tác xã (HTX) đều đang đối mặt với vấn đề thiếu vốn trung và dài hạn. Do không có nguồn vốn đủ mạnh, nhiều HTX và doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc đầu tư cơ sở hạ tầng, mở rộng sản xuất và thiết lập mối liên kết ổn định từ khâu đầu vào đến đầu ra. Theo bà Tạ Thu Thủy, Giám đốc Công ty TNHH Xuất nhập khẩu Phương Thanh, tình trạng hiện tại khiến HTX lo lắng về tài chính và doanh nghiệp cũng phải chật vật xoay sở vốn ngắn hạn với yêu cầu tài sản đảm bảo cao. Điều này tạo nên vòng luẩn quẩn khi HTX khó tiếp cận vốn và doanh nghiệp khó hỗ trợ, ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của lúa gạo Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Việc khơi thông nguồn vốn không chỉ hỗ trợ HTX phát triển bền vững mà còn giúp các doanh nghiệp thu mua và tiêu thụ lúa gạo hiệu quả, mở ra tiềm năng xuất khẩu lớn cho Việt Nam trong bối cảnh quốc tế đang ưu tiên các sản phẩm nông nghiệp sạch và phát thải thấp.
Trồng lúa chất lượng cao giúp chi phí sản xuất của người dân, thành viên HTX giảm từ 20-30%, năng suất tăng 10-15%, hệ số giảm phát thải đo lường giảm trung bình 5-6 tấn CO2/ha. |
"Nếu doanh nghiệp được vay vốn với lãi suất thấp, kịp thời và dài hạn, sẽ giúp họ ổn định nguồn vốn, từ đó không phải loay hoay tìm kiếm tài chính để phát triển sản xuất. Việc này sẽ giúp các doanh nghiệp tiết kiệm thời gian và công sức, tập trung vào phát triển bền vững", bà Tạ Thu Thủy chia sẻ.
Đại diện Công ty TNHH Lúa gạo Việt Nam (Vinarice) cũng cho biết, hiện công ty đang phải tự chủ về vốn. Nếu có sự hỗ trợ từ Nhà nước và ngân hàng về nguồn vốn ưu đãi, quá trình triển khai các đề án sẽ dễ dàng hơn, đồng thời thu hút thêm người dân tham gia vào hợp tác xã.
Ông Trương Hòa Thuận, Giám đốc HTX Nông nghiệp Phước Hảo (Trà Vinh), nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tiếp tục hỗ trợ các HTX về vật tư đầu vào và tiêu thụ lúa gạo. Ông cũng kêu gọi ngân hàng tiếp tục đồng hành cùng các HTX, giúp họ tiếp cận nguồn vốn để thúc đẩy các hoạt động sản xuất theo các quy định của đề án.
Thực tế, thiếu vốn trung và dài hạn là điểm nghẽn lớn đối với các HTX và doanh nghiệp trong việc triển khai mô hình sản xuất lúa gạo bền vững. Chỉ khi có đủ nguồn lực tài chính này, Việt Nam mới có thể đạt được mục tiêu xuất khẩu 8 triệu tấn gạo và thu về 10 tỷ USD từ các mô hình sản xuất lúa gạo chất lượng cao.
Cần thoả mãn về hợp đồng liên kết
Mặc dù nguồn vốn từ Ngân hàng Nhà nước đã có sẵn để hỗ trợ nông dân, HTX và doanh nghiệp trong việc phát triển sản xuất lúa gạo, nhưng để đạt được mục tiêu của đề án, "tiếng nói" của các ngân hàng lại càng quan trọng hơn. Tài chính là yếu tố then chốt giúp người dân và HTX có thể tổ chức và phát triển sản xuất theo chuỗi giá trị hàng hóa, đáp ứng yêu cầu của chương trình.
Bà Phùng Thị Bình, Phó Tổng Giám đốc Agribank, cho biết ngân hàng cam kết đáp ứng đầy đủ nhu cầu vốn cho các khâu từ trồng trọt, thu mua, chế biến… của các đối tượng tham gia đề án. Agribank sẽ cung cấp vốn cho vay với lãi suất thấp hơn tối thiểu 1%/năm so với mức lãi suất cho vay thông thường. Cụ thể, hiện tại lãi suất cho vay ngắn hạn là 6%/năm, nhưng khách vay trong chương trình này sẽ chỉ phải trả lãi suất 5%/năm.
Phó Tổng Giám đốc Agribank Phùng Thị Bình hướng dẫn việc triển khai cấp vốn tín dụng ưu đãi đến các đối tượng tham gia Đề án. |
Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Trần Thanh Nam cũng khẳng định, sự vào cuộc của ngân hàng là yếu tố quan trọng để tháo gỡ nút thắt về vốn, giúp HTX và doanh nghiệp sản xuất lúa gạo bền vững.
Đây là đề án đầu tiên do Chính phủ chỉ đạo nên nhận được sự quan tâm từ các bộ ngành và tổ chức quốc tế. Mục tiêu chính của đề án là tái cơ cấu sản xuất tại ĐBSCL để nâng cao thu nhập cho nông dân và thành viên HTX. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu này, cần thiết phải có sự liên kết giữa các bên và một sự chuyển đổi tư duy trong sản xuất và quản lý để đảm bảo tính minh bạch từ đầu vào đến đầu ra. Việc giải quyết vấn đề về nguồn vốn sẽ là bước đi quan trọng để ngành lúa gạo phát triển bền vững.
Ông Đào Minh Tú, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN), nhấn mạnh rằng lúa gạo không chỉ quan trọng đối với Việt Nam mà còn đối với cả thế giới, bởi nó liên quan trực tiếp đến an ninh lương thực khi dân số toàn cầu đang gần chạm mốc 8 tỷ người, diện tích đất đai phục vụ cho nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp, trong khi thiên tai và dịch bệnh ngày càng gia tăng. Vấn đề lương thực luôn là chủ đề nóng, nhận được sự quan tâm đặc biệt từ các quốc gia và các ngành công nghiệp.
Vì vậy, việc đầu tư, nghiên cứu và tổ chức sản xuất lúa gạo không chỉ phát huy được lợi thế của vùng ĐBSCL và Việt Nam mà còn mang lại lợi ích cho các HTX và doanh nghiệp, giúp Việt Nam nắm bắt cơ hội và chiếm lĩnh thị trường.
Để đạt được điều này, ông Tú cho rằng việc triển khai sản xuất theo quy trình chuẩn, nâng cao chất lượng, và phát triển thương hiệu là yếu tố quan trọng để ngành lúa gạo Việt Nam có thể cạnh tranh được trên thị trường quốc tế. Điều này không chỉ giúp Việt Nam cạnh tranh với các thương hiệu lúa gạo của Campuchia và Thái Lan mà còn mở ra cơ hội lớn trong việc xuất khẩu.
"Lợi thế của Việt Nam là vùng ĐBSCL, nhưng nhu cầu lương thực trên thế giới lại rất lớn. Chính vì vậy, Đề án 1 triệu ha lúa gạo sẽ góp phần thay đổi tư duy và cách thức tổ chức sản xuất lúa gạo theo chuỗi hàng hóa xuất khẩu," ông Đào Minh Tú chia sẻ.
Thứ trưởng Trần Thanh Nam cho rằng, người dân, HTX và doanh nghiệp hiện chỉ mới ký kết các hợp đồng mua bán đơn giản, điều này dẫn đến tình trạng không thực hiện đúng cam kết. |
Ngành ngân hàng hiện đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ Đề án 1 triệu ha lúa gạo, là một trong bốn nguồn lực chủ chốt. Mặc dù ngân sách chính thức cho đề án phải đến năm 2026 mới được phê duyệt, nhưng việc sản xuất lúa gạo trong thời gian tới sẽ gắn liền với đầu tư vào cơ sở hạ tầng và máy móc, đồng thời thực hiện sản xuất theo chuỗi giá trị để đồng bộ quy trình.
Để giải quyết khó khăn về vốn trước mắt, ông Đào Minh Tú cho rằng các địa phương có thể hỗ trợ HTX bằng cách tạm ứng vốn hoặc tìm kiếm các nguồn vốn từ doanh nghiệp.
Ngân hàng Nhà nước cũng đã có chủ trương triển khai chương trình vay vốn ưu đãi cho các đối tượng tham gia chuỗi giá trị. Việc triển khai càng sớm càng tốt, nhưng cần đảm bảo rằng các ưu đãi sẽ được áp dụng đúng đối tượng, tức là những thành phần tham gia vào liên kết sản xuất.
Trước đây, ngành ngân hàng đã triển khai gói vay cho ngành thủy sản phục vụ xuất khẩu, với 46.000 tỷ đồng đã được giải ngân và dự kiến sẽ tăng. Tuy nhiên, đối với Đề án 1 triệu ha lúa gạo, Ngân hàng Nhà nước cam kết không có giới hạn về nguồn vốn hỗ trợ. Điều này cho thấy nếu việc hỗ trợ vốn cho đề án này mang lại hiệu quả tích cực, ngân hàng sẵn sàng tiếp tục "chung tay" để đáp ứng nhu cầu về vốn cho nông dân, HTX và doanh nghiệp trong ngành lúa gạo, nhằm đem lại lợi thế cho vùng ĐBSCL và cả quốc gia.
Để cải thiện khả năng tiếp cận vốn, Thứ trưởng Trần Thanh Nam cho rằng, người dân, HTX và doanh nghiệp hiện chỉ mới ký kết các hợp đồng mua bán đơn giản, điều này dẫn đến tình trạng không thực hiện đúng cam kết.
Theo Nghị định 98/2018/NĐ-CP của Chính phủ, việc liên kết từ khâu đầu vào đến khâu đầu ra là rất quan trọng và cần được khuyến khích, tuy nhiên, hiện chỉ có khoảng 30% các mô hình liên kết thực hiện đầy đủ theo hình thức này.
Để xây dựng hợp đồng liên kết hiệu quả, HTX cần phải tổ chức sản xuất trên diện tích lớn từ 1.000 ha trở lên (theo khuyến nghị của các tổ chức quốc tế) để giảm chi phí cho người dân và HTX. Ngược lại, sản xuất nhỏ lẻ sẽ làm tăng chi phí. Do đó, để sản xuất gạo chất lượng cao và cạnh tranh trên thị trường quốc tế, việc áp dụng quy trình sản xuất trên quy mô lớn, giảm phát thải là điều kiện thiết yếu.
Huyền Trần