![]() |
Thực trạng bảo vệ cổ đông của Việt Nam so với các quốc gia trong khu vực còn rất thấp |
Tại hội thảo với chủ đề “Thúc đẩy tạo thuận lợi gia nhập thị trường: Cải thiện khởi sự kinh doanh và bảo vệ cổ đông thiểu số” do Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) tổ chức ngày 28/2, ông Phan Đức Hiếu, Phó viện trưởng CIEM cho rằng hiện nay, người dân chưa đủ lòng tin với người đứng đầu doanh nghiệp, nên việc thay đổi quy định để bảo vệ quyền lợi cổ đông nhỏ lẻ là cần thiết để huy động vốn trong dân cư. Cùng với đó, việc thay đổi quy định sẽ giúp chúng ta đi trước các nước trong khu vực về bảo vệ quyền lợi cổ đông nhỏ lẻ
Cổ đông nhỏ không được coi trọng
Báo cáo về thực trạng bảo vệ cổ đông của Ngân hàng Thế giới tại Doing Business Report 2019 cho thấy, chỉ số về bảo vệ cổ đông, nhà đầu tư của Việt Nam có sự cải thiện mạnh mẽ, xếp hạng 89/190 quốc gia (so với thứ hạng 117 năm 2014, hạng 169 năm 2013).
Tuy vậy, ông Phan Đức Hiếu nhìn nhận nếu so sánh thực trạng hiện nay với các quốc gia trong khu vực, thì mức độ bảo vệ nhà đầu tư theo pháp luật Việt Nam còn rất thấp. Chẳng hạn, Indonesia - quốc gia tương đồng nhất, xếp hạng 51; Thái Lan xếp hạng 15; Singapore xếp hạng 7; Malaysia xếp hạng 2.
Phát biểu tại hội thảo, một cổ đông cho biết, trong các cuộc Đại hội cổ đông thường niên, những cổ đông nhỏ thường không được mời đến tham dự, chủ yếu doanh nghiệp mời các cổ đông lớn.
“Tôi có cảm nhận việc nhà đầu tư cá nhân nhỏ lẻ bị cổ đông lớn, lãnh đạo doanh nghiệp thiếu coi trọng là đương nhiên và bình thường, trong khi đây là vấn đề nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến niềm tin của nhà đầu tư vào doanh nghiệp, vào thị trường chứng khoán. Điều đáng nói là nhà đầu tư cá nhân nhỏ lẻ bị chèn ép đủ đường, nhưng bản thân họ cũng như các cơ chế chưa có giải pháp hữu hiệu để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng”, cổ đông này chia sẻ.
Theo ông, các cổ đông nhỏ bị chèn ép dưới nhiều hình thức như cổ đông lớn không lắng nghe, không tiếp thu các kiến nghị, đề xuất của cổ đông nhỏ dù có khả năng mang lại lợi ích chung cho doanh nghiệp; cổ đông lớn, lãnh đạo doanh nghiệp qua mặt cổ đông nhỏ trong các quyết định về sáp nhập doanh nghiệp, phân phối lợi nhuận; lãnh đạo doanh nghiệp không cung cấp thông tin trước các nghi ngờ về sự điều hành bất minh, trục lợi của một số nhân sự chủ chốt tại doanh nghiệp…
Cần "làm lớn" cổ đông nhỏ
Ông Đậu Anh Tuấn, Trưởng Ban Pháp chế, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho biết, mặc dù các quy định pháp luật đã thường xuyên cập nhật các thông lệ, nguyên tắc quốc tế tốt nhất của quản trị doanh nghiệp, nhưng thực tế chất lượng quản trị của các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa tốt như nhiều nước.
Do đó, Luật Doanh nghiệp sửa đổi lần này đưa trọng tâm vào nâng cao quản trị doanh nghiệp, bởi để có doanh nghiệp lớn phải có quản trị tốt. Sứ mệnh của Luật Doanh nghiệp thời gian tới phải thúc đẩy chất lượng quản trị và phải trình Bộ trưởng, Chính phủ có chương trình kèm theo để tăng cường, thúc đẩy chất lượng quản trị, phải hình thành một hệ sinh thái.
Ở các nước, có điều lệ mẫu phải có Viện về quản trị, Hiệp hội nhằm tăng cường chức năng quản trị để doanh nghiệp thúc đẩy quản trị này, các cổ đông thiểu số có những kiến nghị, bảo đảm quyền của mình.
Để bảo vệ quyền của cổ đông, ông Hiếu đề xuất mở rộng quyền, phạm vi của cổ đông, nhóm cổ đông trong việc tiếp cận thông tin về tình hình hoạt động của công ty; mở rộng quyền của cổ đông trong việc kiến nghị, đưa thêm các nội dung vào chương trình họp Đại hội đồng cổ đông; công khai các giao dịch có liên quan, trường hợp có cổ đông sở hữu trên 51% tổng số cổ phần, thì mọi giao dịch có giá trị lớn hơn 10% tổng giá trị tài sản giữa công ty với cổ đông đó và người có liên quan của cổ đông đó phải được Đại hội đồng cổ đông thông qua và cổ đông đó không có quyền biểu quyết.
Đồng thời, giảm bớt yêu cầu, điều kiện để cổ đông thực hiện các quyền quan trọng: triệu tập họp Đại hội cổ đông, xem xét, trích lục biên bản Hội đồng quản trị, hợp đồng phải thông qua Hội đồng quản trị. Cụ thể, giảm yêu cầu về tỷ lệ sở hữu cổ phần từ 10% xuống 5%; bỏ yêu cầu phải sở hữu cổ phần liên tục từ trên 6 tháng.
Về phía doanh nghiệp, ông Phan Lê Hoàng, Phó tổng giám đốc CTCP Tập đoàn Thái Bình Dương cho rằng, việc bỏ điều kiện sở hữu cổ phần trong thời hạn liên tục ít nhất 6 tháng là phù hợp, vì đã là cổ đông của công ty thì đương nhiên cổ đông phải được thực hiện ngay các quyền của mình, mà không phân biệt cổ đông cũ hay mới.
Thanh Hoa