Cooperatives | Thứ hai, 28/11/2022 | 07:49 GMT+7
0 |

Kinh tế tập thể, HTX góp phần giảm nhanh tỷ lệ đói nghèo ở vùng dân tộc thiểu số tại Thái Nguyên

Trong thời gian qua và những năm sắp tới, khu vực kinh tế tập thể, HTX được xác định có vị trí, vai trò quan trọng trong công tác xóa đói, giảm nghèo tại tỉnh Thái Nguyên, đặc biệt là ở vùng dân tộc thiểu số.

Với phương châm “không để ai bị bỏ lại phía sau”, hằng năm, cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp đã quan tâm triển khai thực hiện có hiệu quả các chương trình, dự án, chính sách dân tộc trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Dân số Thái Nguyên có gần 1,3 triệu người với 51 dân tộc cùng sinh sống, trong đó có 8 dân tộc chiếm số đông (Kinh, Tày, Nùng, Sán Dìu, Mông, Sán Chay, Dao, Hoa), đồng bào các dân tộc thiểu số chiếm gần 30% dân số toàn tỉnh.

Tính đến thời điểm 1/10/2019, tỉnh Thái Nguyên có 124 xã vùng dân tộc thiểu số và miền núi (đến cuối năm 2021 còn 110 xã). Số hộ dân tộc thiểu số là 130.917 hộ với tổng dân số là 384.348 người chiếm 29,87% dân số toàn tỉnh, sinh sống tập trung chủ yếu ở 5 huyện miền núi, vùng cao: Định Hóa, Võ Nhai, Phú Lương, Đồng Hỷ, Đại Từ.

Nhiệm vụ công tác dân tộc, chính sách dân tộc, đặc biệt là công tác an sinh xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số luôn nhận được sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh, sự phối hợp của các cấp, các ngành trong quá trình tổ chức, triển khai thực hiện các chính sách dân tộc, giảm nghèo. Các chương trình, chính sách đầu tư vùng dân tộc thiểu số và miền núi đã phát huy được hiệu quả, đảm bảo công khai, minh bạch, đúng mục đích, đúng đối tượng.

Một trong những chương trình mang lại dấu ấn tích cực trong thực hiện chính sách dân tộc ở Thái Nguyên là Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi (Chương trình 135).

Đến nay, tỉnh Thái Nguyên chỉ còn 14 xã và 142 xóm đặc biệt khó khăn, có 66/110 xã vùng dân tộc thiểu số và miền núi đạt chuẩn nông thôn mới (bằng 65%), tỷ lệ cao gấp 3 lần bình quân chung vùng dân tộc thiểu số và miền núi toàn quốc…

Những năm qua, cùng với tập trung phát triển kinh tế, tỉnh Thái Nguyên luôn chú trọng công tác giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội, bằng nhiều chính sách, giải pháp đồng bộ, được triển khai hiệu quả, qua đó góp phần phát triển kinh tế - xã hội bền vững và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.

Với nhiều giải pháp đồng bộ, sự vào cuộc của các cấp, ngành, chỉ tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh hoàn thành vượt kế hoạch, giảm từ 2,82% xuống còn 2,17% cuối năm 2021, giảm 0,65%, vượt 0,2% (chỉ tiêu là 0,45%). Thực hiện rà soát hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều đầu kỳ giai đoạn 2022-2025: Theo báo cáo kết quả sơ bộ của các huyện, thành, thị, tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh là 6,09% (20.416 hộ) và 16.274 hộ cận nghèo chiếm 4,85% trên tổng số hộ dân cư toàn tỉnh.

Kết thúc năm 2021, Thái Nguyên xếp thứ 2 trong 11 tỉnh miền núi vùng Đông Bắc có tỷ lệ hộ nghèo thấp, tăng 3 bậc so với năm 2020.

Nghị quyết Ðại hội Ðảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ 20, nhiệm kỳ 2020 - 2025 đã xác định: Ðặc biệt quan tâm xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững và phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số; thu hẹp khoảng cách giàu - nghèo giữa các vùng dân cư trên địa bàn...

Để thực hiện tốt mục tiêu, giải pháp mà tỉnh đưa ra là: Thực hiện đầy đủ, kịp thời các chính sách xã hội, giải quyết việc làm, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, nhất là ở vùng dân tộc thiểu số, miền núi.

Triển khai chủ trương này, các cấp ủy, chính quyền trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên đã và đang thực hiện những giải pháp cụ thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Bên cạnh đó, Ban Dân vận Tỉnh ủy Thái Nguyên cũng đã tham mưu cho cấp ủy, chính quyền tăng cường chỉ đạo các địa phương đối thoại, gặp gỡ, bám sát cơ sở, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số để lắng nghe tâm tư, nguyện vọng, tìm cách tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ đồng bào phát triển sản xuất, cải thiện cuộc sống.

Theo Sở LĐ-TB&XH Thái Nguyên, giai đoạn 2021 - 2025, tỉnh tiếp tục gắn giảm nghèo bền vững với xây dựng nông thôn mới; lồng ghép các dự án hỗ trợ xây dựng nông thôn mới với mô hình giảm nghèo và các chính sách an sinh xã hội; đẩy mạnh đào tạo nghề cho lao động nông thôn, gắn việc làm, đào tạo nghề với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, phấn đấu hàng năm giảm 1% hộ nghèo trở lên.

Trên cơ sở những kết quả tích cực đã đạt được giai đoạn vừa qua, thời gian tới, Thái Nguyên sẽ tập trung triển khai, thực hiện tốt Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030; tiếp tục khơi dậy tinh thần đoàn kết các dân tộc và nâng cao đời sống cho đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; nhân rộng mô hình kinh tế tại vùng sâu, vùng xa.

Trong giai đoạn đến năm 2025, để nâng cao hiệu quả Chương trình giảm nghèo bền vững, Thái Nguyên tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội gắn với giảm nghèo bền vững, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số, địa bàn đặc biệt khó khăn; cải thiện và từng bước nâng cao điều kiện sống của người nghèo, trước hết ở khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, các xã nghèo ở các huyện Võ Nhai, Định Hóa, Đồng Hỷ.

Đồng thời, tỉnh huy động các nguồn vốn đầu tư cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội tại các xã nghèo, tập trung đầu tư đồng bộ theo tiêu chí nông thôn mới...

Với Chương trình phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2025, tỉnh Thái Nguyên phấn đấu đến hết năm 2025 sẽ giảm tỷ lệ hộ nghèo vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi trên địa bàn tỉnh bình quân 2%/năm, phấn đấu tăng mức thu nhập bình quân của người dân tộc thiểu số lên gấp 2 lần so với năm 2020; giảm 50% số xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh; giảm 50% số thôn, xóm ra khỏi địa bàn đặc biệt khó khăn; phấn đấu 100% xã có đường ô tô đến trung tâm xã được rải nhựa hoặc bê tông, 100% đường đến trung tâm thôn, bản được nhựa hóa, bê tông hóa, 100% số trường, lớp học và trạm y tế được xây dựng kiên cố, 100% số hộ dân được sử dụng điện lưới quốc gia và các nguồn điện khác phù hợp, 96% đồng bào dân tộc thiểu số được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh…

Thực tế thời gian qua cũng cho thấy, nhiều mô hình HTX, tổ hợp tác hoạt động có hiệu quả đã từng bước nâng cao thu nhập cho các thành viên cũng như hộ dân liên kết. Bà con các dân tộc, trong đó có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số dần thay đổi tư duy, chuyển từ sản xuất nhỏ lẻ, tự cung tự cấp sang liên kết sản xuất hàng hóa quy mô lớn hơn, nâng cao giá trị nông sản và phát triển bền vững.

Đặc biệt, các tổ hợp tác, HTX được thành lập đã góp phần phát huy các đặc sản của địa phương, nhất là sản phẩm chè của Thái Nguyên, theo hướng sản xuất sạch, hữu cơ, mở rộng đầu ra tiêu thụ sản phẩm. Kinh tế tập thể, HTX cũng đóng vai trò tiên phong trong các chương trình xây dựng nông thôn mới, chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP)…

Chính vì vậy, tỉnh Thái Nguyên đã có nhiều chính sách khuyến khích người dân tham gia vào các mô hình kinh tế hợp tác, hỗ trợ các tổ hợp tác, HTX phát triển sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Cộng với những chính sách khác về phát triển nông nghiệp nông thôn, chính sách dân tộc, đào tạo nghề… góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có mục tiêu giảm nghèo bền vững. Đời sống của người dân, trong đó có đồng bào các dân tộc thiểu số ngày càng được cải thiện, an ninh chính trị và trật tự xã hội được giữ vững, tăng niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, cấp ủy và chính quyền địa phương.

Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có gần 4.500 tổ hợp tác với hơn 73.000 thành viên; 643 HTX với trên 42.500 thành viên và người lao động. Toàn tỉnh có 4 liên hiệp HTX với 26 HTX thành viên, tổng số vốn điều lệ là 33 tỷ đồng. Hoạt động sản xuất, kinh doanh của các tổ hợp tác, HTX, liên hiệp HTX trong tỉnh ngày càng phát triển và đạt hiệu quả cao.

Nhiệm kỳ 2020-2025, Liên minh HTX tỉnh Thái Nguyên đặt mục tiêu phát triển thêm từ 300 tổ hợp tác trở lên, 210 HTX trở lên, 3 liên hiệp HTX trở lên; 100% các huyện, thành phố, thị xã có mô hình HTX kiểu mới điển hình tiên tiến bền vững; thu nhập bình quân của thành viên và người lao động trong tổ hợp tác, HTX đến năm 2025 tăng từ 1,5 - 2 lần so với năm 2020; đến năm 2025, trên 95% HTX có cán bộ quản lý đạt trình độ trung cấp trở lên, trong đó ít nhất 30% HTX có cán bộ quản lý có trình độ đại học trở lên…

Kinh tế tập thể, HTX tiên phong trong việc phát triển thương hiệu, nâng cao giá trị đặc sản của Thái Nguyên, đặc biệt là với sản phẩm chè

Tháng 5/2022, HTX Tâm Trà Thái (xã Tân Cương, TP. Thái Nguyên) đã được nhận Giải thưởng của ASEAN về phát triển nông thôn và xóa đói giảm nghèo. Theo đó, HTX Tâm Trà Thái được đánh giá là đơn vị có nhiều đóng góp trong việc bảo tồn đặc sản địa phương, nghề thủ công truyền thống, tạo thu nhập cho người dân, góp phần xóa đói giảm nghèo tại địa phương…

Với mong muốn nâng cao chất lượng, thương hiệu sản phẩm, đồng thời tạo việc làm giúp người dân địa phương thoát nghèo, nhiều HTX ở Thái Nguyên đang không ngừng ứng dụng khoa học công nghệ, sản xuất chè theo tiêu chuẩn VietGAP - hướng hữu cơ.

Thái Nguyên hiện là tỉnh đứng đầu cả nước về diện tích trồng chè, khoảng 22,7 nghìn ha và sản lượng thu hoạch trên 244,5 nghìn tấn với các trọng điểm sản xuất chè sạch như: Sông Công, Phú Lương, Tân Cương, Đại Từ, Cao Sơn, Đồng Hỷ... đem lại hiệu quả kinh tế cao.

Nghề trồng chè và chế biến chè đã đem lại hiệu quả kinh tế lớn cho tỉnh Thái Nguyên. Nhiều hộ gia đình thoát nghèo và có cơ hội làm giàu nhờ có cây chè.

Tỉnh Thái Nguyên đã chú trọng vào đổi mới và phát triển hình thức liên kết trong sản xuất và chế biến tiêu thụ chè. Cụ thể, toàn tỉnh có 35 doanh nghiệp, 77 HTX, 230 làng nghề. Đồng thời, đẩy mạnh công tác xây dựng thương hiệu, xúc tiến thương mại tiêu thụ chè Thái Nguyên.

Theo lãnh đạo Sở NN&PTNT cho biết, hầu hết diện tích chè ở Thái Nguyên được sản xuất theo hướng áp dụng quy trình sản xuất chè an toàn. Nhiều HTX đã dần chuyển hướng sản xuất sản phẩm chè VietGAP - hướng hữu cơ.

Đáng chú ý, hiện nay, tỉnh Thái Nguyên đang nỗ lực xây dựng mô hình thương hiệu chè OCOP gắn với trải nghiệm du lịch nhằm nâng cao thu nhập, góp phần xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới.

Theo đại diện Hội Chè Thái Nguyên, để giúp các HTX sản xuất chè tại Thái Nguyên tiếp cận và xuất khẩu sản phẩm chè sang thị trường nước ngoài thì việc kiểm soát vùng nguyên liệu, quá trình canh tác và thu hái là điều kiện cần thiết.

Một điển hình về tạo dựng thương hiệu chè Thái Nguyên là HTX Trà Cao Sơn, xã Bình Sơn, TP. Sông Công.

Sau 3 năm thành lập (8/2019) với nhiều khó khăn trong sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm đến quản lý hoạt động, HTX Trà Cao Sơn đã xây dựng được thương hiệu với 6 sản phẩm OCOP đạt 4 sao, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng.

Theo bà Lê Thị Quang, thành viên của HTX Trà Cao Sơn, hiện nay, giá chè búp khô của gia đình bà đang bán vào khoảng 350.000 - 400.000 đồng/kg. Trung bình một năm, gia đình bà Quang thu lãi hơn 100 triệu đồng đã trừ chi phí, giúp gia đình ổn định cuộc sống.

Những năm qua, việc chuyển đổi, thay thế diện tích chè truyền thống bằng các giống chè có năng suất chất lượng cao đã giúp người dân HTX Trà Cao Sơn thu lợi lớn từ cây chè, đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế, giảm nghèo ở địa phương.

Việc áp dụng phương thức sản xuất mới theo tiêu chuẩn VietGAP hướng hữu cơ giúp ổn định năng suất và nâng cao chất lượng chè hơn. Mức giá bán chè búp khô cao hơn từ 150.000-200.000 đồng so với trước.

Theo lãnh đạo HTX Cao Sơn, nhờ áp dụng sản xuất chè theo hướng hữu cơ nên sản phẩm chè ngày càng được người tiêu dùng ưa chuộng. Thu nhập bình quân của các thành viên trong HTX Cao Sơn lên tới hơn 50 triệu đồng/người/năm, cao hơn 15 triệu đồng so với thời điểm chưa có HTX.

Hiện, HTX có 6 sản phẩm đạt OCOP 4 sao (năm 2020 có 3 sản phẩm chè Đinh, chè Tôm nõn, chè Móc câu; năm 2021 có thêm 3 sản phẩm bột trà xanh Matcha, trà Hương Sen, trà đặc sản Cao Sơn).

Ngoài ra, các sản phẩm trà của HTX đã đăng ký nhãn hiệu bảo hộ, mã vạch truy xuất nguồn gốc.

HTX đang đầu tư hơn 1,5 tỷ đồng xây dựng 300m2 nhà xưởng sao chè và tiếp tục duy trì sản xuất chè theo quy chuẩn hữu cơ trong năm 2022. Đồng thời, mở rộng vùng sản xuất thông qua việc liên kết các hộ làm chè trên địa bàn nhằm tạo ra những sản phẩm chất lượng, mang lại thu nhập ổn định cho thành viên.

HTX góp phần thay đổi tư duy sản xuất cho đồng bào các dân tộc, tạo sản phẩm sạch và phát triển bền vững

Những năm qua, tỉnh Thái Nguyên đã huy động các nguồn lực đầu tư để thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng, giá trị kinh tế cao, sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, hữu cơ.

Việc sản xuất nông sản an toàn, theo hướng hữu cơ được các cơ quan chức năng của tỉnh Thái Nguyên rất chú trọng. Trong đó, Chi cục Phát triển nông thôn Thái Nguyên thường xuyên cử cán bộ đến từng đơn vị sản xuất để kiểm tra thực tế hoạt động của các HTX, mô hình sản xuất.

Thông qua các hoạt động này, Chi cục nắm bắt được những nhu cầu thiết thực của các đơn vị sản xuất để có sự hỗ trợ phù hợp, kịp thời, tránh lãng phí và tạo điều kiện tối đa để nâng cao chất lượng của sản phẩm.

Theo lãnh đạo Sở NN&PTNT tỉnh Thái Nguyên: Thực hiện chỉ đạo của tỉnh, tới đây, Sở sẽ tổ chức sản xuất theo ngành hàng, thông qua phương án sản xuất nông nghiệp hàng năm để có định hướng và phương án hỗ trợ sản xuất, tạo ra sự liên kết sản xuất giữa "3 nhà". Bên cạnh đó, Sở sẽ đẩy mạnh tiêu thụ các sản phẩm qua các sàn giao dịch thương mại điện tử nhằm giúp người tiêu dùng tiếp cận được thông tin sản phẩm, các HTX sẽ giảm được các chi phí bán hàng, từ đó giảm giá thành sản phẩm.

Sở Công Thương Thái Nguyên cũng sẽ hỗ trợ kết nối tiêu thụ các sản phẩm OCOP, sản phẩm nông sản đến vào các trà thu hoạch rộ, đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, quảng bá, kết nối; đưa các sản phẩm đảm bảo về an toàn thực phẩm và đáp ứng yêu cầu về an toàn dịch bệnh tiêu thụ tại các đơn vị, doanh nghiệp, siêu thị, trung tâm thương mại, chợ truyền thống, các cửa hàng tự chọn... Đồng thời, đẩy mạnh việc phối hợp với các đơn vị liên quan trong việc hỗ trợ kết nối, tiêu thụ các sản phẩm nông sản (các đơn vị đăng ký mua hàng qua Sàn Giao dịch thương mại điện tử tỉnh Thái Nguyên).

Theo Liên minh HTX tỉnh Thái Nguyên, hiện nay, nhu cầu về thực phẩm sạch (đặc biệt là rau, củ, quả sạch) của người tiêu dùng ngày càng tăng, việc sản xuất nông nghiệp theo hướng hữu cơ, tiêu chuẩn VietGAP là một hướng đi đúng đắn. Nắm bắt xu hướng này, nhiều HTX sản xuất rau, củ, quả trong tỉnh Thái Nguyên đã nhanh chóng bắt nhịp. Từ các HTX, việc sản xuất theo quy chuẩn, tiêu chuẩn đảm bảo an toàn thực phẩm đã lan tỏa đến người nông dân trong khu vực, trong đó có đồng bào dân tộc thiểu số.

Các HTX đã tập hợp và làm thay đổi được tập quán, tư duy sản xuất của đồng bào dân tộc thiểu số để xây dựng một vùng trồng, chế biến nông sản sạch, bảo vệ môi trường và khơi dậy niềm tin về mô hình HTX kiểu mới.

Cụ thể, tham gia HTX, người dân được hướng dẫn, học hỏi những kỹ thuật mới, những kinh nghiệm hay về sản xuất theo hướng hàng hóa, an toàn, bền vững. Vì thế, không còn tư duy sản xuất nhỏ lẻ, tự cung tự cấp, hoặc mạnh ai nấy làm; sản phẩm làm ra cũng có giá trị gia tăng cao hơn, chất lượng đồng đều hơn và số lượng lớn hơn để đáp ứng nhu cầu liên kết với doanh nghiệp thu mua, chế biến, từ đó nâng cao hiệu quả kinh tế, tăng thu nhập cho người dân.

Theo số liệu thống kê của của ngành chức năng Thái Nguyên , hiện toàn tỉnh có trên 400 HTX nông nghiệp, trong đó có khoảng trên 20 HTX chuyên về trồng, sản xuất rau, củ, quả an toàn.

Thời gian qua, các HTX này đã từng bước tham gia vào sản xuất hàng hóa theo chuỗi giá trị, thiết kế bao bì, mã vạch sản phẩm. Qua đó, người tiêu dùng dễ dàng nhận biết thương hiệu sản phẩm của HTX, giá trị sản phẩm đã tăng từ 10 - 30%, góp phần nâng cao thu nhập cho các HTX cũng như người lao động.

Ngoài ra, các HTX này cũng góp sức đưa diện tích cây ăn quả toàn tỉnh sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP được chứng nhận đạt 376 ha; diện tích rau toàn tỉnh sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP được cấp giấy chứng nhận là 107ha; sản lượng rau được sản xuất an toàn theo tiêu chuẩn, quy chuẩn chất lượng an toàn thực phẩm đạt gần 4.500 tấn/năm.

Một ví dụ điển hình trong việc thay đổi tư duy sản xuất của nông dân, trong đó có đồng bào dân tộc thiểu số là HTX Nông nghiệp hữu cơ Phổ Yên (xã Thành Công, thị xã Phổ Yên) với mô hình trồng măng tây xanh theo hướng hiện đại giúp tận dụng được tiềm năng đất đai tại địa phương, mang lại nguồn lợi kinh tế cao, đóng góp tích cực vào mục tiêu bảo vệ môi trường sinh thái.

Cây măng tây xanh được HTX Phổ Yên triển khai trên diện tích lớn từ tháng 7/2019, thay thế cho các vùng trồng lúa, chè, rau màu kém hiệu quả. Chỉ sau hơn một năm, mô hình đang cho thấy hiệu quả cao, có tiềm năng rất lớn để nhân rộng diện tích, nâng cao giá trị.

Hiệu quả của mô hình trồng măng tây xanh tại HTX Nông nghiệp hữu cơ Phổ Yên đang tạo hiệu ứng lan tỏa mạnh mẽ tại địa phương. Chỉ một thời gian ngắn, HTX đã thu hút 16 hộ dân ở các xóm Hạ Đạt, Ao Sen, Vạn Phú, Cầu Dài, Vạn Kim tham gia trồng với diện tích hơn 1,5ha.

Theo tính toán, chi phí để trồng 1 sào măng tây xanh khoảng 25 - 30 triệu đồng, sau 6 - 8 tháng bắt đầu cho thu hoạch, nếu được chăm sóc tốt, có thể thu hoạch liên tục trong vòng 8-10 năm.

Để nâng cao hiệu quả sản xuất, cùng với việc chủ động cây giống, HTX Nông nghiệp hữu cơ Phổ Yên thường xuyên mời các chủ vườn trồng măng tây quy mô lớn ở các nơi về phổ biến kỹ thuật chăm sóc, thu hoạch và tư vấn lắp đặt hệ thống tưới nước tiết kiệm cho các thành viên.

Trong quá trình canh tác, HTX hướng dẫn các hộ dùng các loại phân xanh, phân vi sinh, chế phẩm sinh học… để chăm sóc cây trồng, nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường.

Theo đại diện HTX Phổ Yên, ý thức về vệ sinh môi trường, an toàn thực phẩm của thành viên HTX đang ngày càng được nâng cao.

Trước đây, tình trạng lạm dụng thuốc trừ sâu, phân bón hóa học xảy ra phổ biến, vừa gây ô nhiễm môi trường, khiến đất đai bạc màu, sức khỏe con người bị ảnh hưởng, vừa khiến chất lượng sản phẩm giảm sút, sức cạnh tranh yếu.

Đến nay, với sự đồng hành của HTX, các hộ thành viên áp dụng phương thức sản xuất sạch, chú trọng ứng dụng khoa học - kỹ thuật mới, các loại hóa chất độc hại, ngoài danh mục cho phép bị loại bỏ hoàn toàn.

Đơn cử như trong việc trừ cỏ dại, thành viên HTX nói không với thuốc hóa học, ưu tiên sử dụng máy cắt cỏ hoặc nhổ cỏ bằng tay, trong trường hợp cần thiết có thể sử dụng các chế phẩm sinh học thân thiện môi trường.

Trong thời gian tới, bên cạnh tích cực nâng cao trình độ sản xuất cho thành viên, ứng dụng hiệu quả khoa học - kỹ thuật mới, HTX sẽ chủ động quảng bá, xây dựng thương hiệu, tìm kiếm các hợp đồng liên kết chuỗi từ sản xuất tới tiêu thụ.

Đại diện HTX khẳng định: Việc làm ăn với các đối tác lớn như doanh nghiệp, nhà hàng càng đòi hỏi HTX phải hoàn thiện quy trình sản xuất để tạo ra những sản phẩm chất lượng. Vì vậy, phương thức sản xuất hữu cơ, thân thiện môi trường sẽ tiếp tục được thành viên HTX áp dụng trong thời gian tới.

HTX tích cực tham gia Chương trình OCOP, đóng góp quan trọng để hoàn thành các tiêu chí trong Chương trình xây dựng nông thôn mới.

UBND tỉnh Thái Nguyên xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong phát triển kinh tế xã hội là phải gắn với phát triển kinh tế nông nghiệp, qua đó góp phần đẩy mạnh phát triển các sản phẩm OCOP, nâng cao thu nhập cho nhân dân.

Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, Thái Nguyên cũng xác định phải đẩy mạnh công tác truyền thông, hướng dẫn về OCOP, nhận đăng ký ý tưởng sản phẩm, phương án, dự án sản xuất kinh doanh, tổ chức phát triển sản phẩm OCOP, xây dựng hệ thống quản lý, giám sát, đánh giá, xây dựng thương hiệu sản phẩm… hình thành hệ thống cơ sở hạ tầng giới thiệu và bán sản phẩm OCOP tại các khu du lịch, khu dân cư, siêu thị, chợ truyền thống, trung tâm hành chính cấp tỉnh và huyện, nhất là giai đoạn 2019 - 2025.

Tỉnh cũng tăng cường hỗ trợ các HTX, tổ hợp tác, doanh nghiệp xây dựng, triển khai kế hoạch nâng cao chất lượng sản phẩm, phát triển quy mô sản xuất, đẩy mạnh các hoạt động quảng bá, xúc tiến thương mại.

Theo số liệu từ UBND tỉnh Thái Nguyên, tổng kinh phí thực hiện Đề án OCOP của tỉnh giai đoạn 2019 - 2025 là hơn 700 tỷ đồng, trong đó nguồn ngân sách tỉnh hơn 70 tỷ đồng, ngân sách huyện, xã hơn 60 tỷ đồng, vốn lồng ghép các nguồn vốn hỗ trợ cho chương trình trên 240 tỷ đồng và vốn xã hội hóa hơn 360 tỷ đồng...

Có thể khẳng định, sau hơn 3 năm triển khai Đề án “Mỗi xã một sản phẩm”, Chương trình OCOP tỉnh Thái Nguyên đã trở thành động lực để phát triển kinh tế vùng nông thôn, tạo ra những sản phẩm chất lượng cao, liên kết theo chuỗi giá trị gắn với tiêu thụ sản phẩm, tạo ra nhiều việc làm, nâng cao thu nhập cho nông dân.

Đến nay, toàn tỉnh có 129 sản phẩm OCOP, trong đó có 2 sản phẩm 5 sao, 73 sản phẩm 4 sao, còn lại là 3 sao của 49 chủ thể là HTX, 11 chủ thể là doanh nghiệp, 3 chủ thể là tổ hợp tác, 3 chủ thể là cơ sở sản xuất kinh doanh.

Ngoài các sản phẩm về chè, hiện ở Thái Nguyên còn có nhiều sản phẩm OCOP được thị trường tiêu thụ mạnh như: gạo, na, tinh bột nghệ, cao ngựa bạch... Đặc biệt, giá trị kinh tế của sản phẩm nông nghiệp thế mạnh của tỉnh được nâng lên từ 20% trở lên nhờ đạt tiêu chí OCOP và việc xúc tiến thương mại. Doanh số bán hàng của các đơn vị, HTX, doanh nghiệp, cơ sở sản xuất có sản phẩm OCOP đạt 3, 4 sao đều tăng so với trước.

Sở NN&PTNT tỉnh Thái Nguyên cũng xác định, việc xây dựng OCOP góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng, hiệu quả và thực hiện thành công chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới.

Tuy nhiên, đại diện Văn phòng Chương trình xây dựng nông thôn mới tỉnh Thái Nguyên cho biết: Không chạy theo số lượng, tỉnh ban hành tiêu chuẩn riêng là sản phẩm đạt tiêu chuẩn OCOP phải có vùng nguyên liệu đáp ứng tiêu chuẩn VietGAP, tăng cường an toàn thực phẩm. Từ đó, nhận thức của các chủ thể, nhất là nông dân về chất lượng sản phẩm OCOP được coi trọng, người tiêu dùng tín nhiệm, giá trị gia tăng của sản phẩm được nâng lên, thúc đẩy liên kết sản xuất, tăng thu nhập cho nông dân, củng cố, phát triển HTX ở nông thôn.

Các sản phẩm OCOP đã tăng giá trị sản xuất bình quân đạt 110 triệu đồng/ha/năm, nhiều diện tích trổng chè đạt 750 triệu đồng/năm, cây ăn quả đạt 350 triệu đồng/năm. Năm 2021, giá trị sản xuất ngành nông nghiệp Thái Nguyên đạt 14,6 nghìn tỷ đồng, bình quân mỗi năm tăng khoảng 4%, góp phần đưa gần 80% số xã đạt chuẩn nông thôn mới.

Với quan điểm “Xây dựng nông thôn mới là một quá trình lâu dài, thường xuyên và liên tục, có điểm khởi đầu nhưng không có điểm kết thúc”, trên cơ sở những kết quả đạt được của 10 năm triển khai thực hiện, Đại hội Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ XX, nhiệm kỳ 2020-2025 đã xác định xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ cần quan tâm đặc biệt, với mục tiêu đến hết năm 2025, tỉnh Thái Nguyên có 95% số xã đạt chuẩn nông thôn mới; 6 đơn vị cấp huyện hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới và đạt chuẩn nông thôn mới.

Để hoàn thành mục tiêu này, khu vực kinh tế tập thể, trong đó nòng cốt là các HTX và tổ hợp tác, được xác định có vị trí, vai trò quan trọng, đặc biệt là đáp ứng yêu cầu hoàn thành tiêu chí Tổ chức sản xuất và phát triển kinh tế nông thôn (tiêu chí số 13) và 3 tiêu chí còn lại trong nhóm Kinh tế và tổ chức sản xuất (tiêu chí số 10 - Thu nhập; tiêu chí số 11 - Nghèo đa chiều; tiêu chí số 12 - Lao động).

Một trong những ví dụ điển hình về HTX góp phần xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên là huyện Đồng Hỷ với đóng góp của HTX miến Việt Cường (xã Hóa Thượng).

Theo đó, với những cơ chế đặc thù của huyện Đồng Hỷ, cách tiếp cận sáng tạo và phù hợp của các địa phương, Chương trình xây dựng nông thôn mới đã tạo sự lan tỏa sâu rộng, góp phần tích cực thay đổi bộ mặt nông thôn. Đến hết năm 2021, toàn huyện đã có 11/13 xã đạt chuẩn xây dựng nông thôn mới, trong đó có 2 xã đạt xây dựng nông thôn mới nâng cao, 7 xóm xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu.

Trên cơ sở kết quả đạt được, năm 2022, huyện Đồng Hỷ đặt mục tiêu xây dựng 1 xã xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu; 1 xã xây dựng nông thôn mới nâng cao; các xã còn lại tăng trung bình từ 2 tiêu chí trở lên; đối với các xã đã đạt chuẩn xây dựng nông thôn mới, duy trì và nâng cao chất lượng các tiêu chí.

Mục tiêu xa hơn, năm 2025, Đồng Hỷ sẽ trở thành huyện xây dựng nông thôn mới. Để đạt được mục tiêu này, bên cạnh các cơ chế của Trung ương, của tỉnh, huyện Đồng Hỷ đã ban hành cơ chế hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2025 với 17 danh mục, bao gồm tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa và giáo dục - đào tạo, trong đó có việc hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể, HTX.

Tính đến cuối năm 2021, trên địa bàn huyện Đồng Hỷ có 74 HTX với trên 1.000 thành viên, trong đó có 52 HTX nông nghiệp, chiếm trên 70% tổng số HTX. Toàn huyện có 37 HTX có các hoạt động liên kết sản xuất tiêu thụ sản phẩm nông sản với các doanh nghiệp, đơn vị đầu mối thu mua. Thu nhập bình quân của người lao động đạt khoảng 6 triệu đồng/người/tháng.

Các HTX, tổ hợp tác trên địa bàn huyện tích cực tham gia phát triển sản phẩm OCOP, phát triển đặc sản địa phương, tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập cho thành viên và lao động địa phương, trong đó có đồng bào dân tộc thiểu số, từ đó góp phần xây dựng nông thôn mới.

Nổi bật nhất là HTX miến Việt Cường (xã Hóa Thượng) với sản phẩm đã đạt OCOP 5 sao cấp quốc gia.

Theo đó, HTX được thành lập vào năm 2007 với 7 thành viên tham gia, đến nay đã tăng lên hơn 30 thành viên. HTX còn tạo việc làm cho hàng chục lao động địa phương và các hộ nông dân liên kết trồng nguyên liệu cung cấp cho HTX, trong đó có nhiều người là đồng bào dân tộc thiểu số.

Hiện, HTX có 4 sản phẩm chính là miến dong, miến khoai lang, miến sắn dây và miến tỏi đen đã được bày bán ở một số hệ thống siêu thị lớn trong cả nước. Đặc biệt, một số sản phẩm đã xuất khẩu sang các thị trường như châu Âu, Thái Lan, Lào… Tất cả 4 sản phẩm miến của HTX miến dong Việt Cường đều vinh dự nhận chứng nhận OCOP từ 3 – 5 sao. Trong đó, miến dong đạt chứng nhận OCOP 5 sao cấp quốc gia; miến sắn dây và miến tỏi đen đạt chuẩn OCOP 4 sao; miến khoai lang nhận chứng nhận OCOP 3 sao. Thời gian qua, HTX miến Việt Cường đã tranh thủ các chương trình, nguồn vốn hỗ trợ của Nhà nước để đầu tư mở rộng nhà xưởng, nâng cao chất lượng sản phẩm, các tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, cải tiến mẫu mã, bao bì…

Thời gian gần đây và sắp tới, HTX miến dong Việt Cường đã và tiếp tục chủ động xây dựng vùng nguyên liệu tại địa phương nhằm mở rộng quy mô sản xuất; đồng thời, tạo công ăn việc làm ổn định cho bà con nông dân, đặc biệt là cây dong giềng dễ trồng và chăm sóc, phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng và khí hậu vùng núi. Thành công của HTX cũng góp phần quan trọng để xã Hóa Thượng và các địa phương trong huyện Đồng Hỷ, trong tỉnh Thái Nguyên đạt các tiêu chí trong xây dựng nông thôn mới.

Minh Đức

 

Tin khác

Đăng nhập

Bạn chưa có tài khoản? Đăng ký ngay

Đăng ký
Qui định
Quy định về đăng ký tài khoản và nội dung "Ý kiến của bạn" trên Vnbusiness

Hình đại diện và tên đăng ký ko phản cảm, ko có các thông tin bao gồm: link web, số điện thoại, email hoặc tên riêng..mang tính quảng cáo, thương mại cho cá nhân, tổ chức hoặc mang nội dung gây hại cho các tổ chức, cá nhân khác.

Các hoạt động của User ko vi phạm pháp luật và các qui định của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam

Nội dung bình luận ko chia sẻ link, số điện thoại, email hoặc quảng cáo cho bất cứ cá nhân, tổ chức nào

Nội dung bình luận không vi phạm đạo đức, pháp luật, thuần phong mỹ tục Việt Nam

Nội dung bình luận không vu cáo, bôi nhọ, miệt thị, xuyên tạc, gây hại cho tổ chức, cá nhân

Nội dung bình luận không chửi bới, thô tục

Khi phạm qui, tài khoản sẽ bị khóa tạm thời.

Thông báo

Đăng ký thành công. Hãy kiểm tra email và kích hoạt tài khoản

Quên mật khẩu