Theo Tổng cục Hải quan, năm 2016, Việt Nam NK gần 150.000 tấn giống cây trồng. Trong đó, lớn nhất là các giống lúa lai cao cấp, với hơn 7.000 tấn, tiếp theo là các giống cỏ, ngô, rau, hoa và dưa hấu...
Tính riêng trong quý I/2017, Việt Nam NK hơn 4.800 tấn giống cây các loại. Các giống lúa tiếp tục là mặt hàng giống được NK nhiều nhất, với gần 220 tấn, chủ yếu là các giống của Trung Quốc.
Nguy cơ phụ thuộc
Gs.Ts. Trần Đình Long - Chủ tịch Hội Giống cây trồng Việt Nam, cho biết: “Việt Nam hiện NK gần 90% các loại giống yêu cầu công nghệ cao, đặc biệt là các loại giống hoa, rau cao cấp. Đối với giống lúa thuần trong nước tự sản xuất được 100%, song lúa lai cũng đang phải phụ thuộc NK 70%”.
Đơn cử, từ năm 2016, trên địa bàn Tp.HCM phát triển mạnh nghề trồng hoa lan và cây cảnh. Theo đó, riêng trong năm 2016, các vựa trồng và sản xuất lan trên địa bàn đã NK khoảng 1,5 triệu giống lan các loại để phục vụ cho thị trường thành phố cũng như các tỉnh lân cận.
Ông Bùi Văn My - Giám đốc Trung tâm Tư vấn và hỗ trợ nông nghiệp Tp.HCM, cho biết: “Nhu cầu NK lan giống chất lượng cao đã và đang tiếp tục tăng nhanh, bởi dù vẫn lai tạo được các giống mới nhưng chất lượng lan trong nước không đẹp, bông ít, khó đáp ứng nhu cầu của người chơi”.
Lý giải nguyên nhân khiến tình trạng NK giống cây trồng liên tục tăng, Gs.Ts. Trần Đình Long cho rằng: “Việc lai tạo các giống cây cao cấp thường đòi hỏi nhiều kỹ thuật cao, chi phí tốn kém. Ví dụ như giống lúa lai, nhiều nước trên thế giới đi trước Việt Nam vài chục năm, chi phí đầu tư lên tới hàng tỷ USD, vì vậy, Việt Nam muốn đuổi kịp rất khó”.
Còn theo Ts. Lê Quý Kha - Phó Viện trưởng Viện KH-KT nông nghiệp Miền Nam, cho rằng năng suất một số loại giống cây trồng như ngô, lúa ở thị trường Trung Quốc và Mỹ, giống rau ở thị trường Đài Loan (Trung Quốc) khá tốt, nên nước ta thường NK.
Cần đẩy mạnh liên kết “4 nhà” để tránh nguy cơ phụ thuộc vào NK giống cây trồng
“Thực tế cho thấy, việc NK các giống cây trồng chất lượng cao không chỉ xảy ra tại Việt Nam, mà là thực trạng tại nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên, nếu không được quản lý và kiểm soát tốt sẽ dẫn tới độc quyền và phụ thuộc giống NK”, Ts. Kha nhấn mạnh.
Trước nguy cơ mất kiểm soát và lệ thuộc vào giống cây trồng NK, các chuyên gia đầu ngành cho rằng Việt Nam phải từng bước nâng cao chất lượng chọn lai tạo giống, đầu tư mạnh hơn cho công tác nghiên cứu, đào tạo nguồn nhân lực trong việc chọn tạo giống.
“4 nhà” cùng làm
“Việc nghiên cứu, chọn lai tạo, nâng cao chất lượng giống cây trồng để đáp ứng nhu cầu trong nước, giảm phụ thuộc NK không chỉ là trách nhiệm của Nhà nước, mà phải xã hội hóa. Nghĩa là cả Nhà nước, nhà khoa học, DN và người dân cùng liên kết”, Gs. Ts. Trần Đình Long cho hay.
Tình trạng “chảy máu chất xám” đang gây ra rất nhiều khó khăn. Ts. Lê Quý Kha cho biết: “Trong mấy năm gần đây, nhiều công ty đa quốc gia đã trả lương cao nhằm thu hút những cán bộ kỹ thuật có kỹ năng của Việt Nam. Từ đó dẫn đến tình trạng cán bộ đầu ngành nghiên cứu về chế tạo giống của Việt Nam giờ không còn mạnh”.
Hiện tại, Việt Nam hoàn toàn đủ khả năng sản xuất các loại giống cây trồng chất lượng, tiến tới giảm phụ thuộc NK. Tuy nhiên, điều quan trọng là phải tổ chức sản xuất hiệu quả, đồng thời làm tốt khâu bảo vệ bản quyền, thương hiệu.
Ông Nguyễn Hồng Sơn - Cục trưởng Cục Trồng trọt (Bộ NN&PTNT), cho biết: “Việc khuyến khích các tổ chức, cá nhân đầu tư nhiều vào nghiên cứu, tạo ra giống cây trồng tốt, đặc biệt là những giống cây ăn quả nổi bật đang là vấn đề rất đáng được quan tâm thực hiện”.
Theo ông Sơn, nhiều nguồn gen quý hiếm của Việt Nam đang ngày dần mất đi, bởi kinh phí cho việc chọn lai tạo giống còn hạn chế. Vì vậy, rất cần các DN tham gia đầu tư vào lĩnh vực chọn lai tạo, sản xuất giống cây trồng, nhất là các DN khoa học công nghệ.
Vai trò của các DN là yếu tố quyết định trong việc nâng cao giá trị giống cây trồng. Tuy nhiên, muốn thu hút DN tham gia đầu tư vào lĩnh vực này, cần có những cơ chế chính sách, lộ trình tiếp cận cho phù hợp hơn, thúc đẩy liên kết giữa đơn vị Nhà nước với DN.
Theo Gs.Ts. Trần Đình Long: “Các nhà khoa học không nên trông chờ vào “túi tiền” Nhà nước, mà phải tự quyết định số phận của mình thông qua việc cộng tác cùng DN. Chỉ khi có các loại giống tốt, chất lượng cao, DN mới tìm đến, mua bản quyền giống của các nhà khoa học và đưa vào sản xuất, thương mại. Khi có lợi nhuận, DN quay trở lại trả công tương xứng cho nhà khoa học. Khi đó, lương của nhà khoa học hàng trăm triệu một tháng cũng không phải là vấn đề lớn”.
Tuy nhiên, để duy trì và phát huy hiệu quả của liên kết DN - nhà khoa học, vai trò của cơ quan quản lý nhà nước trong việc hỗ trợ tối đa cho hình thức hợp tác công - tư là đặc biệt quan trọng. Nhà nước cần giữ vai trò quản lý, tham gia thanh kiểm tra để bảo đảm giống nghiên cứu, sản xuất ra đạt chất lượng tốt.
Văn Nguyễn