Trong bài tham luận của minh Chuyên gia kinh tế Nguyễn Xuân Thành, Giám đốc Chương trình giảng dạy Fulbright và cộng sự là chuyên gia Đỗ Thiên Anh Tuấn khẳng định, người Việt đang đối mặt với nguy cơ chưa giàu đã già và nợ nần nhiều.
Người ta giàu mới già, còn chúng ta…
Theo phân tích của Ts. Nguyễn Xuân Thành, nếu như Thái Lan bắt đầu giá hóa dân số từ năm 2001, tức trước Việt Nam gần 10 năm. Vào thời điểm đó, thu nhập bình quân đầu người của Thái Lan là 1.897 USD, tương đương 2.538 USD theo thời giá 2015. Mỗi người dân Thái Lan khi đó cũng chỉ gánh số nợ công xấp xỉ 466 USD, tức tương đương 24,6% thu nhập của họ.
Singapore già hóa dân số sớm hơn từ năm 1998 nhưng vào thời điểm đó thu nhập bình quân đầu người của người dân Singapore đã lên đến 21.824 USD và mỗi người dân Singapore gánh hơn 18.000 USD nợ công.
![]() |
Thách thức Việt Nam chưa giàu đã già lại nợ nần nhiều đang rất hiện hữu
Hàn Quốc đạt mức thu nhập bình quân đầu người 12.197 USD vào năm bắt đầu già hóa dân số 1997 trong bối cảnh tỷ lệ nợ công lý tưởng ở mức 8,8% thu nhập. Nhật Bản đã già hóa dân số từ năm 1967 ở mức thu nhập chỉ 1.228 USD nhưng thu nhập này tương đương với 8.720 USD theo thời giá 2015.
“Thì Việt Nam bắt đầu bước sang giai đoạn dân số già từ năm 2015 với mức thu nhập xấp xỉ 2.110 USD nhưng mỗi người dân Việt Nam đã phải gánh hơn 1.300 USD nợ công, tương đương 62,2% thu nhập”, Ts. Thành cho biết.
Trong khi đó, rất nhiều nước có thu nhập cao hơn nhiều so với Việt Nam như Brunei, Malaysia, Indonesia, Philippines nhưng lại có cơ cấu dân số trẻ hơn Việt Nam.
Hay các nước như Ấn Độ, Cambodia, Lào có thu nhập thấp hơn Việt Nam nhưng lại có dân số trẻ hơn trong khi người dân ở những nước này lại không phải gánh nợ công quá nhiều như người dân Việt Nam.
Vì vậy, Ts. Thành nhận định, so với mức bình quân các nước, ở “độ tuổi” của Việt Nam thì lẽ ra đã phải đạt thu nhập tương đương Malaysia, tức khoảng xấp xỉ 10.000 USD. Tuy nhiên thực tế Việt Nam mới chỉ đạt mức thu nhập bằng 1/5 của Malaysia. Hơn nữa người dân Việt Nam hiện đã gánh số nợ công lên đến trên 62% thu nhập trong khi người dân Malaysia chỉ gánh số nợ công chưa tới 52% thu nhập của họ.
Phân tích bối cảnh này, nhóm chuyên gia khẳng định, thực tế cho thấy rằng Việt Nam không thể tiếp tục trì hoãn cải cách hay chậm chạp trong nỗ lực kiểm soát nợ công của mình trước khi dân số chuyển sang giai đoạn già hóa nhanh hơn. Theo một số dự báo, Việt Nam sẽ cần khoảng 25-30 năm để chuyển từ dân số vàng sang già hóa dân số, thậm chí có thể chỉ mất khoảng 15 năm.
Theo số liệu dự báo của Quỹ Dân số Liên hợp Quốc (UNFPA), đến năm 2033, tỷ lệ dân số trên 60 tuổi ở Việt Nam sẽ hơn 20%. Điều này có nghĩa là Việt Nam sẽ ở vào giai đoạn dân số già trong vòng 17 năm nữa.
Lo ngại hơn, nguy cơ thiếu hụt lực lượng lao động, đặc biệt là lao động có năng suất cao để có thể bứt phá ra khỏi bẩy thu nhập trung bình. Trong một báo cáo cách đây vài năm của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) cho thấy năng suất lao động của Việt Nam thuộc nhóm thấp nhất châu Á – Thái Bình Dương, thấp hơn Singapore gần 15 lần, Nhật Bản 11 lần, Hàn Quốc 10 lần, Malaysia 5 lần, Thái Lan 2,5 lần.
“Thực trạng này cho thấy thách thức Việt Nam chưa giàu đã già lại nợ nần nhiều đang rất hiện hữu. Câu hỏi đặt ra là bao giờ người Việt Nam mới được hưởng thành quả của tăng trưởng và có được một cuộc sống không có nợ nần? Câu trả lời bắt đầu bằng những cải cách thực chất và kiểm soát được nợ công ở mức cam kết là một trong những chỉ báo cho thấy điều đó”, Ts. Thành đặt câu hỏi.
Chấm dứt “vung tay quá chán” chi tiêu ngân sách
Tuy nhiên, Ts. Thành cho rằng, thời gian qua người dân không hiếm khi nghe thấy những cam kết cải cách nhưng dường như con số thực tế lại không chứng minh điều đó.
Cụ thể, trong Chiến lược quản lý nợ công cũng như trong Chiến lược tài chính đến năm 2020 được ban hành từ năm 2012, Chính phủ đưa ra mức trần bội chi ngân sách cho năm 2015 là 4,5% GDP, sau đó giảm tiếp về mức 4% GDP cho giai đoạn 2016-2020.
Thực tế thâm hụt ngân sách năm 2015 theo báo cáo của Chính phủ đã lên đến 6,11% GDP, chưa kể hai năm liền trước 2013 và 2014, thâm hụt ngân sách cũng ở mức rất cao, lần lượt là 6,6% và 6,61% GDP.
Điều đáng nói là những con số bội chi ngân sách này không những đã vượt trần bội chi do Chính phủ tự cam kết mà còn vượt trần bội chi do Quốc hội giới hạn.
Tương tự, nợ Chính phủ cuối năm 2015 đã đạt 50,3% GDP, tức cũng vượt trần cho phép. Đối với nợ chính phủ bảo lãnh, tình trạng nhiều tập đoàn, tổng công ty nhà nước vay nợ nhưng đến hạn không trả được nợ khiến Chính phủ phải đứng ra trả thay cũng là một nguyên nhân gây căng thẳng ngân sách và sức ép lên nợ công.
Trong khi đó, nợ chính quyền địa phương theo thống kê chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong cơ cấu nợ công và có vẻ như không đáng quan ngại. Thế nhưng, điều “có vẻ” này đang khiến cho nhiều người nhầm tưởng rằng chính quyền địa phương không phải là tác nhân gây ra nợ công và do đó thiếu sự sự tập trung trong chính sách quản lý nợ công.
“Tuy nhiên với tình trạng bao cấp chi tiêu ngân sách từ trung ương cho địa phương như hiện nay đã vô hình trung che đậy nguồn gốc làm tăng thâm hụt ngân sách và do đó gia tăng nợ công ở Việt Nam. Ngoài ra, ở một số bộ ngành, tình trạng thiếu kỷ luật trong chi tiêu ngân sách cũng góp phần không nhỏ làm trầm trọng hơn tình trạng khó khăn ngân sách hàng năm”, Ts. Thành đánh giá.
Do vậy, để kiểm soát nợ công hiệu quả, nhóm chuyên gia nêu quan điểm: Chính phủ cần tiếp cận nợ công theo các cấu phần và nguồn hình thành nên nợ công. Theo đó, chính phủ phải nỗ lực cắt giảm bội chi ngân sách sách xuống mức bình quân 3% GDP mỗi năm hoặc có thể theo đuổi mục tiêu cắt giảm ngân sách theo Chiến lược quản lý nợ công kết hợp với nỗ lực cải thiện kết quả tăng trưởng kinh tế và duy trì ổn định vĩ mô; duy trì sự cân bằng hoặc nỗ lực đạt thặng dư ngân sách cơ bản; quản lý chặt bội chi ngân sách địa phương trên cơ cở thiết kế lại cách thức trợ cấp ngân sách của trung ương dành cho địa phương, qua đó giảm tâm lý ỷ lại và xóa bỏ tình trạng “vung tay quá trán”; chuyển vào cân đối ngân sách các khoản chi ngoài.
Lê Thúy