Đây là thông tin được đưa ra tại Hội thảo Phát triển thị trường lao động nhằm thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế ở Việt Nam do Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) với sự hỗ trợ của Chương trình Australia Hỗ trợ cải cách kinh tế Việt Nam (Aus4Reform) tổ chức ngày 26/4/2021.
Cũng theo thông tin tại Hội thảo này, lao động đã qua đào tạo có chứng chỉ, bằng cấp của Việt Nam còn thấp, mới đạt 24,5% năm 2020.
![]() |
Bà Lê Thị Xuân Quỳnh, Phó Trưởng ban Ban nghiên cứu kinh tế ngành và lĩnh vực (CIEM). |
Bà Lê Thị Xuân Quỳnh, Phó Trưởng ban Ban nghiên cứu kinh tế ngành và lĩnh vực (CIEM) cho biết thực tiễn những năm vừa qua cho thấy thị trường lao động Việt Nam đã có những cải thiện nhất định về hệ thống chính sách lao động, việc làm, tạo khung pháp lý để phát triển thị trường lao động, nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh của nguồn nhân lực và giải quyết việc làm cho người lao động. Kết quả, giai đoạn vừa qua, thị trường lao động đã có nhiều dịch chuyển tích cực.
Tuy nhiên, bà Quỳnh cũng cho rằng chất lượng nguồn lao động của Việt Nam còn thấp. Việc tuyển sinh giáo dục nghề nghiệp chủ yếu vẫn là sơ cấp và các hình thức đào tạo dưới 3 tháng, chiếm 75,3% năm 2019, cao đẳng và trung cấp chỉ 24,7%.
“Như vậy, chúng ta chưa đạt chỉ tiêu tỷ lệ lao động đào tạo có bằng cấp chứng chỉ là 25% vào năm 2020”, bà Quỳnh cho biết.
Điều đáng nói là trong đào tạo còn thiếu gắn kết giữa đào tạo và thực hành. Vì thế, kỹ năng lao động của Việt Nam còn nhiều hạn chế, chỉ đạt 46/100 điểm (xếp thứ 103), kém rất xa so với nhóm ASEAN-4.
Một điều cần lưu ý trong thị trường lao động của Việt Nam đó là tình trạng già hóa lao động. Bà Quỳnh cho biết, lực lượng lao động tại Việt Nam ngày một già hóa với lao động cao tuổi tăng mạnh, lao động trẻ giảm và không đủ thay thế lực lượng lao động đang già hóa.
“Tuổi bình quân và trung vị của lực lượng lao động tăng lên. 10 năm tăng khoảng 3 tuổi, tuổi bình quân là 41 tuổi, tuổi trung vị là 40 tuổi năm 2019, bà Quỳnh dẫn chứng.
Một góc khác của thị trường lao động Việt Nam đó là tình trạng thất nghiệp của lao động trong độ tuổi 15-45 thường xuyên ở mức cao. Năm 2019 chiếm 6,51%, chiếm 38,7% tổng số người thất nghiệp
Chức năng dịch chuyển lao động theo tín hiệu thị trường chưa rõ ràng. Lao động phân bổ không đều, còn bất hợp lý giữa các vùng: Các vùng đất rộng có tỷ trọng lao động thấp (vùng Trung du miền núi phía Bắc chỉ chiếm 13,87%, Tây Nguyên chiếm 6,25% lực lựng lao động).
Một trong những nguyên nhân dẫn đến các điểm tối trong bức tranh thị trường lao động Việt Nam, theo bà Quỳnh, là do chính sách phát triển thị trường lao động của Việt Nam còn nhiều hạn chế. Đó là sự thiếu đồng bộ, triển khai chậm: sắp xếp mạng lưới trường lớp chưa đi cùng với hoàn thiện quy hoạch tổng thể về phát triển trường lớp; xác định các ngành nghề trọng điểm nhưng chưa có chính sách gắn kết giữa cơ sở giáo dục với doanh nghiệp; Cơ chế tự chủ tài chính của các cơ sở giáo dục chưa đi cùng với tự chủ về con người, về chương trình đào tạo; thiếu nguồn lực để thực hiện.
Cơ chế giám sát thực hiện các chương trình, chính sách kém hiệu lực, hiệu quả thấp. Thiếu khung pháp lý, chế tài xử lý về trách nhiệm và quyền lợi của doanh nghiệp trong hoạt động giáo dục nghề nghiệp.
Từ những năm 1990, Việt Nam đã thể chế hoá nhiều nội dung về việc làm bằng Hiến pháp, Bộ luật Lao động, Luật Việc làm, Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, Luật Thanh niên, Luật Bình đẳng giới, và nhiều văn bản pháp luật khác.
Nghị định số 61/2015/NĐ-CP ngày 09/7/2015 quy định vê chính sách hỗ trợ tạo việc làm và Quỹ quốc gia về việc làm: cho vay ưu đãi tự tạo việc làm, đi làm việc tại nước ngoài, (chú trọng đối tượng thanh niên, phụ nữ). Tuy nhiên, phạm vi bao phủ của các chính sách việc làm còn hạn chế; Chưa có sự gắn kết với các chính sách chuyển dịch cơ cấu ngành.
Thy Lê