Bảo hiểm xã hội Việt Nam vừa có văn bản gửi Bộ LĐ-TB&XH phản hồi về đề xuất của 13 hiệp hội doanh nghiệp, ngành hàng kiến nghị giảm tỷ lệ đóng bảo hiểm xã hội khi hoàn thiện dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội sửa đổi.
Theo Luật BHXH hiện hành, tỷ lệ đóng BHXH bắt buộc bằng 25,5% tiền lương tháng tính đóng, trong đó người lao động đóng 8%, người sử dụng lao động đóng 17,5%. Từ đó, các hiệp hội doanh nghiệp kiến nghị giảm mức đóng BHXH cho người lao động xuống 5%, người sử dụng lao động đóng còn 15%.
BHXH Việt Nam cho rằng, mức đóng BHXH đã được tính toán, cân nhắc kỹ lưỡng, toàn diện trong các mối quan hệ đóng – hưởng, giá trị tuyệt đối, độ bao phủ BHXH, sự chia sẻ. Tỷ lệ đóng BHXH được điều chỉnh tăng gần nhất khi sửa đổi Luật BHXH năm 2027, từ đó tới nay đều không xem xét về nội dung này khi sửa luật, để đảm bảo tính ổn định, bền vững.
Tỷ lệ đóng bảo hiểm xã hội ở Việt Nam tương đương một số nước như Singapore, Trung Quốc, Nhật Bản, Malaysia… nhưng tỷ lệ hưởng lương hưu tối đa ở Việt Nam cao nhất khu vực, thậm chí cao nhất trên thế giới.
Có doanh nghiệp chia ra hơn 100 loại phụ cấp, phúc lợi để giảm mức đóng bảo hiểm xã hội. |
Số liệu của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) cho thấy, tỷ lệ đóng BHXH ở Việt Nam tương đương một số nước trong khu vực, như: Trung Quốc (gần 33% tiền lương tháng), Nhật Bản (gần 30%), Malaysia (26,7%), Bồ Đào Nha (gần 35%), Đức (gần 40%), Brazil (29%), Argentina (27%), …
Về mức hưởng lương hưu tại Việt Nam tối đa bằng 75% tiền lương tính đóng (nữ đóng 30 năm, nam đóng 35 năm). Bình quân mỗi năm đóng được hưởng 2,5% tiền lương đóng đối với nữ và 2,14% đối với nam. Trong khi các nước như Trung Quốc và Hàn Quốc tỷ lệ này chỉ là 1%; bình quân của thế giới cũng chỉ khoảng 1,7%.
Liên quan đến vấn đề này, Tổ chức lao động quốc tế (ILO) tại Việt Nam cho biết, không tính bảo hiểm y tế thì tổng mức đóng vào quỹ BHXH của Việt Nam là 27,5% tiền lương tháng. Cụ thể trường hợp của Malaysia, mức đóng BHXH tương đương 26,7% lương tháng, thấp hơn Việt Nam, nhưng khi người lao động ốm đau, sinh con, người sử dụng lao động sẽ phải trực tiếp chi trả, quỹ BHXH không chi trả; tương tự với một số nước không có chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. ILO cho rằng, cần hết sức cẩn trọng khi so sánh mức đóng.
Theo BHXH Việt Nam, các hiệp hội doanh nghiệp đang so sánh mức đóng BHXH với các nước có mô hình đóng – hưởng BHXH không tương đồng với Việt Nam. Với Việt Nam, tỷ lệ đóng BHXH cao nhưng hưởng cũng cao. Tuy nhiên, lương hưu thực tế của người lao động lại thấp, do tiền lương tính đóng thấp.
Việt Nam chọn mô hình tính mức hưởng trước nên mức đóng luôn phải đuổi theo nhằm cân đối, đảm bảo độ bền vững của Quỹ Hưu trí, tử tuất. Trong khi đó, các Hiệp hội đang so sánh với nhiều nước có mô hình đóng - hưởng BHXH không tương đồng.
Năm 2022, tiền lương làm căn cứ tính đóng bảo hiểm xã hội của người lao động chỉ bình quân 5,7 triệu đồng/tháng, nên thực tế lương hưu bình quân cũng chỉ 5,4 triệu đồng/người/tháng.
Hiện, tiền lương tính đóng bảo hiểm xã hội gồm lương và các khoản bổ sung chi trả hằng tháng như lương, nhưng chưa phải toàn bộ thu nhập tháng của người lao động. Do đó, Bảo hiểm xã hội Việt Nam cho rằng, nhiều doanh nghiệp thực thi không đầy đủ, tách thu nhập của người lao động thành nhiều khoản phụ cấp, trợ cấp để không phải tính đóng bảo hiểm xã hội.
Nhiều doanh nghiệp tồn tại 3 loại thu nhập, gồm thu nhập làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội, thu nhập để quyết toán và thu nhập thực tế. Có doanh nghiệp chia ra hơn 100 loại phụ cấp lẫn phúc lợi khiến cơ quan bảo hiểm xã hội không đủ cơ sở pháp lý để yêu cầu doanh nghiệp tính đóng bảo hiểm xã hội với các loại phụ cấp này.
Cho nên, việc doanh nghiệp đề xuất giảm tỷ lệ đóng bảo hiểm xã hội đồng nghĩa sẽ giảm mức hưởng của người lao động vốn đã thấp do giảm số năm đóng, nên không phù hợp với điều kiện, bối cảnh thực tiễn của Việt Nam.
Việc đánh giá tỷ lệ đóng BHXH cần được xem xét gắn với mô hình BHXH tại mỗi nước, mối quan hệ giữa mức đóng với quyền lợi hưởng các chế độ, các yếu tố kinh tế vĩ mô như sự phát triển kinh tế, GDP bình quân đầu người, cơ cấu kinh tế, sự phát triển của thị trường lao động, chi phí lao động.
Nguyễn Hạnh