Nhận định mới nhất từ Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) cho thấy ước tính năm 2016 kim ngạch xuất khẩu (KNXK) gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam có thể đạt khoảng 7,1 - 7,2 tỷ USD.
Nguy cơ khủng hoảng gỗ nguyên liệu
80% tổng KNXK gỗ của cả nước hiện nay đến từ các thị trường chủ lực như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc. Trong đó, lớn nhất là Hoa Kỳ (chiếm tỷ trọng 40%), hồi năm ngoái, KNXK vào thị trường này đã đạt 2,64% (tăng 18,2%), riêng 9 tháng đầu năm 2016 đạt gần 2 tỷ USD.
Còn EU, Nhật Bản và Trung Quốc đều chiếm tỷ trọng trung bình khoảng từ 10 - 15%, tiếp đến là các thị trường như Hàn Quốc, Australia, Canada…
Mức tăng trưởng của ngành chế biến gỗ Việt Nam thời gian qua được cho là vẫn duy trì tốt. Trong 10 năm trở lại đây, ngành công nghiệp chế biến gỗ Việt Nam đã có bước tiến vượt bậc, giá XK của ngành vào năm 2010 đã tăng 16 lần so với năm 2000, và trong giai đoạn 5 năm gần đây (2010 - 2015) thì giá trị XK của ngành gỗ cũng tăng gấp 2 lần.
Tuy nhiên, cùng với sự gia tăng về giá trị XK, lượng gỗ sử dụng trong ngành chế biến gỗ ngày càng tăng. Nếu như năm 2013, nguyên liệu gỗ sử dụng trong ngành là 25,7 triệu m3 gỗ quy tròn thì đến năm 2014 đã tăng lên 28,6 triệu m3. Con số này vào năm 2015 là 31,3 triệu m3. Riêng 10 tháng 2016 tổng lượng gỗ mà ngành này sử dụng đã ở mức 26,7 triệu m3.
Với nhu cầu về mặt nguyên liệu trung bình từ 29 - 30 triệu m3 gỗ nguyên liệu hàng năm, thách thức lớn với ngành chế biến gỗ hiện nay là phải vừa đáp ứng nhu cầu tiêu dùng thị trường trong nước và XK.
Kèm theo đó, là việc bảo đảm và tuân thủ những yêu cầu về gỗ hợp pháp từ các quốc gia NK sản phẩm gỗ. Ngoài ra, đó còn là các chính sách thay đổi từ các quốc gia mà Việt Nam đã và đang NK nguyên liệu.
Tại hội thảo “Diễn biến nguồn cung nguyên liệu gỗ năm 2017” diễn ra ở Tp.HCM ngày 14/12, Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam (Vietfores) đã lưu ý chuyện này, nhất là khi gỗ rừng trồng trong nước đang chiếm 30 - 40% tổng lượng nguyên liệu đầu vào, đặc biệt là gỗ cao su và gỗ keo tràm.
Với các DN Việt thì tổng chi phí tuân thủ thủ tục hành chính vẫn là gánh nặng lớn
Theo giới chuyên gia, có một thực tế đang diễn ra là tình trạng các DN có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) và thương nhân Trung Quốc đội lốt DN Việt Nam với sự hình thành các hệ thống nhà máy và cơ sở thu mua nguyên liệu gỗ ở khắp các vùng nguyên liệu gỗ cao su và keo tràm từ phía Nam ra đến khu vực miền Trung - Tây Nguyên để XK sang Trung Quốc.
Chính vấn đề cạnh tranh, khống chế thị trường cung cấp gỗ nguyên liệu này đang tạo ra sức ép rất lớn, thậm chí là nguy cơ là khủng hoảng gỗ nguyên liệu của các DN trong nước ở Tp.HCM, Bình Dương, Đồng Nai và Bình Định.
Thách thức không ít
Thực tế cho thấy, năm 2016, Hiệp định VPA/FLEGT đã kết thúc đàm phán và trong các năm tới, yêu cầu truy xuất nguồn gốc gỗ ngày càng chặt chẽ. Cũng trong năm 2016, các quốc gia như: Trung Quốc, Lào, Campuchia đã ban hành chính sách đóng cửa rừng tự nhiên và cấm XK gỗ tròn, gỗ xẻ.
Điều này dẫn tới tình trạng cạnh tranh về thu mua nguyên liệu tại quốc gia mà Việt Nam hiện đang NK gỗ, và ngay chính tại thị trường Việt Nam. Hơn nữa, việc cần hạn chế XK gỗ nguyên liệu để đảm bảo cho DN Việt Nam chế biến gỗ có đủ nguyên liệu sản xuất lại cấp thiết hơn bao giờ hết.
Chưa kể, nguồn gỗ có chứng chỉ FSC, PEFC cũng là một khó khăn lớn khi đến nay, Việt Nam mới chỉ có khoảng 200.000 ha được cấp hai chứng chỉ này (chỉ chiếm 8% diện tích rừng trồng sản xuất của cả nước). Trong khi đó yêu cầu của những năm tới là phải có 100% gỗ có chứng chỉ FSC và gỗ hợp pháp. Đây là bài toán nan giải cho các DN gỗ Việt Nam hiện nay.
Ngoài ra, theo dự kiến đến năm 2020, KNXK gỗ của Việt Nam sẽ đạt 10 tỷ USD, nguồn cung gỗ nguyên liệu sẽ thêm 4 - 5 triệu m3/năm. Đây cũng là thách thức không nhỏ trên con đường thúc đẩy tăng trưởng KNXK sản phẩm gỗ và tiêu dùng trong nước.
Trong bối cảnh như vậy, để bảo vệ ngành chế biến gỗ XK trong nước và bảo đảm nguồn gỗ nguyên liệu rừng trồng được cung cấp đầy đủ và bền vững trong những năm tới, ông Trần Lê Huy (Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Bình Định) đề nghị Bộ NN&PTNT và Vietfores kiến nghị Chính phủ ban hành các giải pháp hạn chế XK gỗ nguyên liệu một cách hiệu quả.
Theo đó, nên tăng mức thuế suất đối với mặt hàng gỗ tròn và gỗ xẻ (không phân biệt quy cách, loại chiều dày từ 30mm trở xuống, chiều rộng từ 95mm trở xuống, chiều dài từ 1,050mm trở xuống) lên cùng mức 20% trong khung quy định Nghị quyết số 830/2009/UBTVQH12 ngày 17/10/2009 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Giới chuyên gia cũng khuyến nghị cần tăng kiểm tra giám sát để hạn chế việc thương nhân nước ngoài thu gom, khống chế thị trường gỗ nguyên liệu rừng trồng trong nước và lẩn tránh thuế XK bằng cách giảm giá bán, kê khai không đúng quy cách gỗ nguyên liệu XK.
Đồng thời, khi tình hình thị trường gỗ nguyên liệu trong nước ổn định trở lại, Chính phủ nên có giải pháp điều chỉnh mức thuế XK các mặt hàng phù hợp định hướng phát triển ngành gỗ trong tương lai.
Thế Vinh