Trung Quốc đưọc đánh giá là một trong những đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam. Thống kê của Tổng cục Hải quan cho thấy, tháng 11/2016, hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc đạt hơn 2,3 tỷ USD, hết 11 tháng đạt hơn 19,6 tỷ USD. Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc hầu hết các mặt hàng từ thuỷ sản, rau quả, hạt điều, cà phê, gạo… cho tới sản phẩm nội thất từ chất liệu gỗ khác.
Trung Quốc – thị trường chính
Mặc dù, Bộ Công Thương cho biết, trong những tháng cuối năm, tin vui cho ngành hàng trái cây là măng cụt và vải đã được nhận vào thị trường Mỹ, Úc. Các lô hàng được chấp nhận vào các thị trường lớn như Mỹ, Nhật, Hàn Quốc gồm thanh long, chôm chôm, nhãn, vải, và măng cụt đã tăng lên.
Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn là thị trường lớn nhất cho các loại rau và trái cây Việt Nam, chiếm 70,4% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, đứng sau là Hàn Quốc chiếm 3,6%, Mỹ 3,4% và Nhật 3,1%.
Điều này cho thấy sự tăng trưởng xuất khẩu rau và trái cây phát triển mạnh mẽ trong những năm gần đây, thị trường Trung Quốc vẫn là thị trường chính của Việt Nam.
Đối với mặt hàng thuỷ sản, kim ngạch xuất khẩu thủy sản sang Trung Quốc đã tăng mạnh trong những tháng đầu năm và Trung Quốc đã vượt thị trường Hàn Quốc trở thành thị trường nhập khẩu thủy sản Việt Nam lớn thứ tư. Xuất khẩu nông lâm thủy sản sang Trung Quốc đạt khoảng 4,9 tỷ USD, chiếm 20% giá trị xuất khẩu toàn ngành.
Hầu hết các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam đều phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc
Mặt hàng gạo cũng không phải là trưòng hợp ngoại lệ. Trong bức tranh xuất khẩu gạo với gam màu u ám cụ thể, khối lượng gạo xuất khẩu trong 11 tháng ước đạt 4,54 triệu tấn với kim ngạch xuất khẩu 2 tỷ USD, giảm 25% về khối lượng và giảm 20,3% về giá trị so với cùng kỳ năm 2015, Trung Quốc vẫn tiếp tục đứng vị trí thứ nhất về thị trường nhập khẩu gạo của Việt Nam trong 10 tháng đầu năm 2016 với 36% thị phần. So với cùng kỳ năm 2015, gạo Việt Nam xuất khẩu sang thị trường này cũng giảm 22,5% về khối lượng và giảm 13,7% về giá trị.
Trong khi đó, một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực khác như cao su, cà phê, tiêu có lượng xuất khẩu tăng nhưng giá lại giảm. Trung Quốc vẫn là thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam.
Điều này cho thấy, đa phần các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam đều xuất khẩu qua thị trường Trung Quốc. Chuyện sẽ chẳng có gì đáng nói khi hàng hoá Việt Nam xuất khẩu qua đường chính ngạch, tuy nhiên thực tế, đa phần hàng hoá Việt đều xuất khẩu qua đường tiểu ngạch, độ rủi ro rất cao, nhất là khi thị trường Trung Quốc biến động hoặc đưa ra nhiều quy định khó tính.
Rủi ro lớn
Bằng chứng là nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam đang bị Trung Quốc làm khó. Bài học đang hiện hữu là mặt hàng gạo. Năm nay, có thể nói là năm “u ám” của xuất khẩu, trong đó nguyên nhân tới từ việc thị trường Trung Quốc siết chặt với gạo Việt.
Theo đánh giá, tình hình xuất khẩu gạo vẫn tắc do thiếu vắng nhu cầu nhập khẩu lớn. Thời gian qua, nhiều doanh nghiệp xuất khẩu gạo trong nước không đạt kế hoạch kinh doanh do thị trường lúa gạo liên tục rơi vào tình trạng ảm đạm, cung lớn hơn cầu. Trung Quốc là thị trường chính và tiềm năng của xuất khẩu gạo Việt Nam với 36% thị phần, nhưng hiện đã hết hạn ngạch nhập khẩu chính ngạch._
Đáng chú ý, các nhà nhập khẩu gạo của Trung Quốc còn đưa ra yêu cầu với hạt gạo của Việt Nam là từ 9/2016, kích cỡ chiều ngang hạt gạo xuất đi từ Việt Nam phải dưới 2mm.
Hạt gạo Việt Nam xuất khẩu vào Trung Quốc đang có chiều ngang từ 2,3 đến 3 mm. Tuy nhiên, phía Trung Quốc đã ra quy định chỉ nhập khẩu gạo có kích cỡ dưới 2mm. Với quy định mới này, một rào cản nhìn thấy rõ đang đặt ra cho các doanh nghiệp xuất khẩu gạo Việt Nam.
Hay với quy định mới là thương nhân Trung Quốc nếu muốn nhập khẩu tiếp loại gạo này phải “mua” quota ở phía họ với chi phí khá cao. Ước tính, nếu phải “mua” quota, thương nhân Trung Quốc phải giảm 30% giá mua gạo.
Hoặc mặc dù xuất khẩu sắn sang thị trường Trung Quốc chiếm 85% thị trường xuất khẩu, nhưng từ giữa tháng 6/2016 đến nay, Trung Quốc đã đóng nhiều cửa khẩu xuất tiểu ngạch.
Trước đây, nếu chỉ tính xuất khẩu qua cửa khẩu ở Lạng Sơn, chưa tính ở Hà Giang, Móng Cái… mỗi ngày trung bình Việt Nam xuất khoảng 6.000 tấn, nhưng nay chỉ còn 300-400 tấn. Với tình hình trên, dự báo xuất khẩu sắn cả năm nay chỉ đạt khoảng 1 tỷ USD, trong khi năm ngoái tới 1,3 tỷ USD.
Cùng với đó, từ đầu năm tới nay, thị trường Trung Quốc lúc dừng, lúc đóng cửa nhập khẩu đã ngay lập tức ảnh hưởng tới việc xuất khẩu nông sản của Việt Nam.
Vì vậy, tại cuộc họp Ban chỉ đạo Thị trường nông nghiệp và các hiệp hội ngành hàng diễn ra mới đây, các chuyên gia cho rằng mặc dù Trung Quốc là thị trường NK nông lâm thủy sản chính của Việt Nam, nhưng thị phần của các sản phẩm chủ lực của Việt Nam tại thị trường này còn khá nhỏ bé, chưa tương xứng với tiềm năng của Việt Nam và dung lượng thị trường.
Bên cạnh đó, Trung Quốc vẫn thực thi các chính sách thương mại nông sản đơn phương, duy trì thương mại nhà nước, bảo hộ cao đối với những mặt hàng nông sản kém cạnh tranh của nước này, làm tăng rủi ro và chi phí cho các sản phẩm nông sản XK sang thị trường này.
Về thương mại biên giới, Trung Quốc thường xuyên áp dụng chính sách linh hoạt để điều chỉnh lượng hàng cũng như giá hàng XK của Việt Nam vào thị trường nước này, nhằm hạn chế hay duy trì lượng hàng hóa nhập khẩu từ Việt Nam sao cho có lợi nhất cho phía Trung Quốc….
Về vấn đề này, ông Nguyễn Lân Hùng, Chuyên gia nông nghiệp, từng cho rằng: “Thị trường Trung Quốc là 1 tỷ 400 triệu người, một thị trường tuyệt vời. Ta phải tận dụng thị trường ấy, nhưng không phải ta dựa vào mấy ông con buôn ở Quảng Tây”.
“Tại sao Chính phủ không ký hợp đồng đàng hoàng với Quảng Tây, với Vân Nam, với các tỉnh khác? Chúng ta ký đàng hoàng và chúng ta có kim ngạch xuất khẩu đàng hoàng. Về phía chúng ta, chúng ta tạo điều kiện để hàng của chúng ta không giảm chất lượng và đúng quy hoạch với họ”, ông Hùng nói.
Thẳng thắn mà nói, chúng ta không phải không biết thị trường Trung Quốc đầy rủi ro nhưng do hàng hoá Việt vẫn chưa vượt qua được các rào cản chất lượng khắt khe ở nhiều thị trường khó tính như EU, Mỹ hay Nhật Bản. Vì vậy, hàng hoá Việt vẫn cam chịu phụ thuộc vào một thị trường.
PGs.Ts. Phạm Tất Thắng Chuyên gia cao cấp, Bộ Công Thương ------------------------------- Xuất khẩu năm 2016 về tốc độ tăng trưởng không cao như những năm trước và xuất hiện nhược điểm như các mối quan hệ nhập siêu vẫn chưa được cải thiện, Việt Nam vẫn phụ thuộc nhiều vào thị trường là Trung Quốc. Vì vậy, chúng ta cần phải làm thế nào phân tán rủi ro để không bị phụ thuộc vào một thị trường như vậy. Ông Đỗ Kim Lang - Phó Cục trưởng Cục XTTM, Bộ Công Thương Các DN Việt nên tìm hiểu sâu về các quy định nhập khẩu, cập nhật thông tin thị trường, các quy định về chất lượng sản phẩm và thị hiếu người tiêu dùng tại các địa phương Trung Quốc; tăng cường tham gia các hoạt động xúc tiến và mở rộng thị trường do các cơ quan, tổ chức và hiệp hội tổ chức… để có thể đi sâu vào thị trường này, chứ không thể xuất khẩu bấp bênh qua con đường tiểu ngạch. Ts. Võ Trí Thành - Chuyên gia Kinh tế Xuất khẩu đang đứng trước hai bài toán quan trọng là tạo ra cơ hội để khai thác tiềm năng, mở rộng thị trường và lĩnh vực xuất khẩu; và thiết kế chính sách để làm sao cùng mức xuất khẩu song tạo ra giá trị gia tăng lớn hơn trong sản phẩm cao hơn, sẽ thúc đẩy xuất khẩu cao và bền vững hơn. |
Lê Thúy