Ông Đậu Anh Tuấn, Trưởng Ban Pháp chế, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đặt vấn đề: “Với việc cộng đồng kinh tế ASEAN chính thức công bố thành lập ngày 31/12/2015, một loạt những hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam hoàn tất đàm phán và ký kết gần đây như EVFTA, TPP… các DN trong nước của Việt Nam liệu có lấy được “miếng bánh” lớn hơn không vẫn là một câu hỏi lớn?”.
Nhập khẩu tăng 2,5 lần sau 10 năm
Theo thống kê mới nhất của Bộ Công Thương, sau 10 năm gia nhập WTO, kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam đã tăng 2,5 lần. Từ 62,68 tỷ USD năm 2007, kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam đã đạt con số 165,65 tỷ USD vào năm 2015.
Mới đây, Tổng cục Thống kê cũng cho biết, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng 10/2016 của cả nước ước tính đạt 15,70 tỷ USD, tăng 7,9% so với tháng trước. Tính chung 10 tháng năm 2016, kim ngạch hàng hoá nhập khẩu đạt 140,6 tỷ USD, tăng 2,1% so với cùng kỳ năm trước.
Về thị trường hàng hóa nhập khẩu 10 tháng năm 2016, Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của nước ta với kim ngạch đạt 40,3 tỷ USD, giảm 1,2% so với cùng kỳ năm trước; tiếp đến là Hàn Quốc đạt 25,8 tỷ USD, tăng 10,8%; ASEAN đạt 19,1 tỷ USD, giảm 2,8%; Nhật Bản đạt 12,2 tỷ USD, tăng 1,7%; EU đạt 9,1 tỷ USD, tăng 6,4%; Hoa Kỳ đạt 6,7 tỷ USD, tăng 0,6%.
Ngược lại, về chiều xuất khẩu, nếu nhìn vào kết quả này thì có thể đánh giá kết quả này khá tốt. Năm 2015, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu đạt 162,4 tỷ USD, tăng gấp 3,3 lần so với năm 2007, tăng 8,1% so với năm 2014, trong đó, khu vực FDI (không kể dầu thô) đạt 111,3 tỷ USD, tăng 18,5%.
Năm 2015 có 25 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD. Tuy nhiên, thẳng thắn mà nói, thành tích xuất khẩu này phần lớn thuộc về các DN FDI (chiếm tới hơn 70%).
Các chuyên gia cho rằng, trước sức ép từ hội nhập, cũng như trong cuộc đua tranh giành miếng bánh ngon từ hội nhập, Việt Nam đang bị kém thế giới trên nhiều phương diện.
_Bình luận về việc nhiều cơ hội của WTO đã bị các DN Việt để tuột, Ts. Huỳnh Thế Du, Giảng viên Chính sách công, Giám đốc Đào tạo Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright cho rằng sau khi gia nhập WTO, có ý kiến đánh giá Việt Nam đã không may vì phải chịu tác động của khủng hoảng toàn cầu…
|
“Tuy nhiên, theo tôi, những rắc rối hiện nay của Việt Nam chủ yếu là do những vấn đề nội tại chứ không phải tác động từ bên ngoài. Một trong những vấn đề chính là khu vực trong nước đã từ bỏ việc tận dụng lợi thế, tập trung cho sản xuất kinh doanh sang đầu cơ tài sản trong bối cảnh “căn bệnh Hà Lan” (Dutch Disease) đã làm tổn hại nghiêm trọng sức cạnh tranh của khu vực sản xuất”, ông Du nhận xét.
Ts. Du lí giải kinh tế Việt Nam đã bị nhiễm “căn bệnh Hà Lan” – mà nó được hiểu là dòng vốn lớn chảy vào làm đồng tiền trong nước lên giá, dẫn đến hàng hóa sản xuất trong nước trở nên đắt đỏ hơn so với hàng hóa của các nước khác. Hậu quả là khu vực sản xuất trong nước trở nên kém cạnh tranh hơn.
Hội nhập cần chuyển về chất
Một nghiên cứu của chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright cũng chỉ ra rằng ba trong bốn động cơ của cỗ máy tăng trưởng Việt Nam gồm: khu vực kinh tế nhà nước, khu vực kinh tế dân doanh và khu vực nông nghiệp đang gặp trục trặc.
Chỉ có một ngoại lệ là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) vẫn đang ăn nên làm ra, do họ đã tận dụng được những lợi thế của nền kinh tế Việt Nam và miễn nhiễm được với những tác động tiêu cực.
“Do vậy, nếu bỏ khu vực FDI sang một bên và chỉ phân tích ba khu vực còn lại thì nền kinh tế Việt Nam sẽ bi đát hơn nhiều, mà nguyên nhân chủ yếu là do ta chứ không phải do tác động từ bên ngoài”, ông Du nói.
Theo ông Đậu Anh Tuấn, các DN dân doanh trong nước phần lớn vẫn quẩn quanh ở thị trường nội địa. Điều này thể hiện tương đối rõ qua kết quả điều tra về nhóm khách hàng chính của DN trong điều tra PCI 2015.
Theo đó, chỉ có 3% DN siêu nhỏ, 4% DN nhỏ và gần 9% DN quy mô vừa có khách hàng là các cá nhân, DN từ nước ngoài. Song ngay cả các “ông lớn” trên sân nhà cũng chỉ vươn ra thị trường nước ngoài ở một tỉ lệ tương đối khiêm tốn (24%).
Sự liên kết giữa các DN nhỏ và vừa với các DN FDI tại Việt Nam thông qua việc cung cấp hàng hóa, dịch vụ vẫn tương đối hạn chế. Theo kết quả điều tra PCI 2015, chỉ có khoảng 3-4% DN siêu nhỏ và nhỏ có khách hàng chính là các DN FDI.
Tỷ lệ DN quy mô vừa và lớn có khách hàng chính là DN FDI tại Việt Nam dù cao hơn, song cũng chỉ ở mức lần lượt 7% và 11%. Những hạn chế liên quan tới marketing hay thông tin kết nối cung cầu, chưa đáp ứng những tiêu chuẩn về quản lý sản xuất, tiêu chuẩn chất lượng của các DN FDI tại Việt Nam có thể là những nguyên nhân của hiện tượng trên.
Ông Tuấn đánh giá: “Kết quả điều tra này góp phần cung cấp thêm lý giải cho tỷ trọng 70,7% của riêng khối DN FDI trong tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam năm 2015”.
Nhận định bối cảnh phát triển trong giai đoạn tới của Việt Nam rất khác khi hội nhập đã chuyển sang một giai đoạn mới về chất, PGs.Ts. Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, dẫn chứng chỉ trong năm 2015, Việt Nam đã hoàn thành đàm phán và đi vào thực thi hàng loạt hiệp định hội nhập thế hệ mới, có trình độ rất cao. Nhiều đối tác trong các Hiệp định là những cường quốc kinh tế hàng đầu thế giới – Mỹ, Nhật Bản, Canada, Australia, 27 nền kinh tế EU, Nga và Hàn Quốc.
Tuy nhiên, đi cùng với đó, các điều khoản cam kết của các Hiệp định đều đòi hỏi về trình độ và tiêu chuẩn rất cao, điều kiện thực thi rất nghiêm ngặt. “Việt Nam phải thay đổi căn bản thực lực của mình mới “bám” vào được các cấu trúc hội nhập này, qua đó, hưởng lợi ích hội nhập để vượt lên”, ông Thiên đánh giá.
| Ông Trần Đình Thiên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam ------------------------------- Chúng ta phải ráo riết tái cơ cấu, nhưng là tái cơ cấu theo hướng hội nhập hiện đại, bảo đảm tuân thủ các cam kết hội nhập. Chỉ có như vậy, nền kinh tế mới tránh khỏi lặp lại tình thế “hậu WTO”, để có năng lực thực thi hội nhập và thật sự dựa vào hội nhập để tiến lên. Đồng thời, trong sự khôn ngoan cần có của nước đi sau, chúng ta phải biết “mượn sức” hội nhập để “nhập” vào quỹ đạo hội nhập, thay đổi cơ cấu kinh tế của mình, nhanh chóng thoát khỏi đẳng cấp thấp để tiến vượt lên. Ts.Huỳnh Thế Du Ông Đậu Anh Tuấn Các DN nhỏ và vừa phần lớn vẫn quẩn quanh tại thị trường nội địa. Mức độ phát triển kinh tế trong tương lai của Việt Nam phụ thuộc nhiều vào việc các doanh nghiệp trong nước tham gia được vào chuỗi giá trị toàn cầu. Qua đó, các doanh nghiệp vừa hưởng lợi được từ nguồn vốn và công nghệ nước ngoài vừa tiếp cận với thị trường thế giới, qua đó tác động lan tỏa đến toàn bộ nền kinh tế. |
Lê Thúy