Theo các chuyên gia, chính những khó khăn này đã khiến hoạt động thương mại Việt Nam trong những năm qua chưa tương xứng với tiềm năng, trong bức tranh vẫn còn những gam màu tối khó khỏa lấp.
Theo Viện Nghiên cứu thương mại, không phủ nhận hoạt động XK của Việt Nam giai đoạn 1995 - 2015 đã đạt được nhiều thành tích, nhưng song song với đó cũng còn không ít bất cập.
Xuất thô, gia công, mối lo nhập siêu
Về cơ cấu hàng hóa XK chuyển dịch chưa thực sự hợp lý, giá trị gia tăng của hàng XK còn thấp, năng lực cạnh tranh của hàng XK chậm được cải thiện. Cụ thể, chuyển dịch cơ cấu hàng hóa XK chưa hướng mạnh vào chế biến sâu, phát triển sản phẩm XK có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, tỷ trọng sản phẩm chế biến, chế tạo có giá trị gia tăng còn thấp.
Tỷ trọng nhóm hàng nhiên liệu khoáng sản và nông lâm thủy sản giảm dần trong cơ cấu hàng hóa XK, tỷ trọng hàng chế biến chế tạo tăng nhanh.
Tuy nhiên sự chuyển dịch chưa thực sự hợp lý vì nhóm hàng chế biến, chế tạo vẫn chủ yếu làm gia công, lắp ráp cho nước ngoài (dệt may, da giày, điện thoại...), giá trị gia tăng của sản phẩm thấp, chưa được cải thiện, sản phẩm XK có hàm lượng công nghệ và chất xám cao còn hạn chế.
Trong khi đó, giá trị của hàng hóa XK còn thấp do chủ yếu dựa vào khai thác các yếu tố sẵn có về điều kiện tự nhiên và nguồn lao động rẻ. Trong những năm gần đây, XK của Việt Nam đang dần xác lập được vị thế trên thị trường thế giới ở nhóm hàng hóa cơ bản như dầu thô, khoáng sản, nông sản, thủy sản, dệt may...
Sản lượng hàng nông sản XK của Việt Nam hiện chưa mang lại giá trị gia tăng tương xứng
Tuy nhiên, đây đều là những ngành hàng XK thâm dụng tài nguyên và lao động lớn, đem lại giá trị gia tăng thấp và có xu hướng không có khả năng tăng trưởng kim ngạch nhanh, đồng thời dễ bị ảnh hưởng bởi những biện pháp phòng vệ thương mại của các nước NK.
Do vậy, năng lực cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị trường thế giới thấp. Khoảng 90% nông sản XK dạng thô hoặc sơ chế, chất lượng thấp, chưa có thương hiệu.
Chất lượng thấp và không có thương hiệu, phần lớn giá hàng hóa XK của Việt Nam buộc phải duy trì thấp hơn các đối thủ cạnh tranh. Chẳng hạn, gạo Việt Nam có giá bán luôn thấp hơn gạo cùng loại của Thái Lan 3 - 5%. Cá tra Việt Nam hiện chiếm 90% thị phần thế giới song giá bán thấp hơn 20 - 30% sản phẩm tương tự.
XK hàng hóa vẫn phụ thuộc chủ yếu DN có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), thể hiện bằng con số XK của khu vực FDI vẫn dẫn đầu và đóng góp lớn trong kim ngạch XK hàng năm. Tỷ trọng kim ngạch XK của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) tăng từ 27,0% năm 1995 lên 68,2% năm 2015. Trong khi đó, tỷ trọng của khối DN trong nước trong tổng kim ngạch XK hàng hóa lại có xu hướng giảm từ 73,0% năm 1995 xuống còn 31,8% năm 2015.
Nỗ lực để đổi từ “lượng sang chất, từ manh mún sang tập trung, từ thô sang tinh...” rất chậm. Nói cách khác là “vẫn có gì xuất nấy” mà chưa có chiến lược XK được xây dựng dựa trên lợi thế so sánh với năng suất lao động cao và chiếm vai trò chủ động trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Ông Trần Thanh Hải - Phó Cục Trưởng Cục Xuất Nhập khẩu, Bộ Công Thương, cho biết nhiều mặt hàng nông sản XK của nước ta hiện nay chiếm tỷ trọng lớn trên thị trường thế giới.
Tuy nhiên kim ngạch XK các mặt hàng này của Việt Nam luôn bị động và phụ thuộc nhiều vào sự tăng giảm thấp thường của giá trên thị trường thế giới, khắc phục tình trạng “được mùa mất giá, được giá mất mùa”.
Khi đánh giá phát triển thương mại quốc tế thời gian qua của Việt Nam, Ts. Nguyễn Thị Nhiễu, Viện Nghiên cứu thương mại, cho rằng vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Trong khi năng lực cạnh tranh, chất lượng và hiệu quả XK còn yếu thì NK vẫn chủ yếu là NK công nghệ trung gian, NK công nghệ nguồn còn hạn chế, nhập siêu đã được kiềm chế nhưng chưa bền vững.
Lo cơ hội bị “nẫng tay trên”
Ts. Phạm Nguyên Minh - Viện trưởng Viện Nghiên cứu thương mại cảnh báo, nếu DN không tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị thì ngay cả quy mô XK cũng khó tăng lên và lợi ích thu được cũng sẽ dần chuyển hết sang các nhà đầu tư nước ngoài.
Trước bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, Ts. Lê Huy Khôi - Viện Nghiên cứu thương mại, lo ngại rằng khi cơ cấu hàng hóa XK của Việt Nam sang các thị trường đã ký FTA chưa có chuyển biến mạnh, vẫn tập trung chủ yếu vào các mặt hàng nông sản, các mặt hàng công nghiệp sử dụng nhiều lao động và các mặt hàng nguyên nhiên liệu...
Thêm vào đó, một số mặt hàng như cao su, dừa, rau quả, than đá... lại tập trung quá lớn vào thị trường Trung Quốc (chiếm trên 70% tổng kim ngạch XK các mặt hàng này).
“Tình hình trên đã dẫn đến việc phụ thuộc quá lớn vào một thị trường và khi đối tác giảm NK thì Việt Nam đã phải gánh chịu những hậu quả không nhỏ”, Ts. Khôi nhận định.
Theo ông Trần Thanh Hải, thời gian tới, cần quy hoạch lại và điều chỉnh cơ cấu đầu tư nước ngoài, dành quỹ đất cho các lĩnh vực sản xuất, nhất là sản xuất hàng XK, rà xét lại các chính sách ưu đãi theo hướng ưu đãi cao hơn cho các ngành chế tạo, chế biến có giá trị gia tăng lớn (không phụ thuộc vào thị trường tiêu thụ).
Cùng với đó, đầu tư năng lực sản xuất các mặt hàng chế biến, chế tạo có lợi thế XK, tập trung đầu tư mở rộng sản xuất các mặt hàng có tốc độ tăng trưởng XK cao và liên tục trong nhiều năm nhưng tỷ trọng thị phần còn nhỏ.
Gs. Phạm Tất Thắng - Chuyên viên cao cấp Bộ Công Thương, cho rằng cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam cũng cần phải điều chỉnh lại tầm nhìn, tư duy kinh doanh và cách ứng xử của mình cho phù hợp với hoàn cảnh mới.
Để tận dụng cơ hội và vượt qua thách thức trong quá trình hội nhập sắp tới, ông Phạm Tất Thắng khuyến cáo các DN cần sớm bỏ tư duy manh mún, chộp giật để xây dựng một định hướng cho hoạt động kinh doanh trên thị trường khu vực và quốc tế, chấp nhận cạnh tranh quốc tế trên mọi phân khúc thị trường.
Ngoài ra, DN cần trang bị thêm kiến thức, nâng cao năng lực cạnh tranh, hiểu rõ các rào cản đối với từng loại hàng hóa, dịch vụ trên từng thị trường mà DN hướng tới.
Ông Trần Thanh Hải Phó Cục trưởng Cục XNK Bộ Công Thương ------------------------------- Chính sách thương mại mới cần ưu tiên hình thành một số liên minh ngành hàng chiến lược để chủ động điều tiết và thích ứng với sự biến động bất thường của giá cả thế giới. Chúng ta cần tìm cách thức hợp tác với một số nước XK chính để làm giảm những biến động giá các mặt hàng XK nông sản trên thị trường thế giới. Gs. Phạm Tất Thắng PGs.Ts. Hà Văn Sự - Đại học Thương mại |
Lê Thúy