Theo ông Nguyễn Đỗ Anh Tuấn, Viện trưởng Viện Chính sách và chiến lược phát triển nông nghiệp, qua khảo sát mới đây cho thấy hiện các DN nông nghiệp than phiền nhiều nhất là vốn, tiếp cận đất đai và khoa học công nghệ.
Vẫn khó tiếp cận vốn
Và, điều đáng lo khi có đến 70% DN được hỏi nói khó tiếp cận tín dụng và 49% kêu vô cùng khó. Dẫn số liệu của Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), ông Tuấn cho biết hiện tỷ lệ hỗ trợ của Nhà nước với nông nghiệp chỉ ở mức 7%, trong khi mức này của Trung Quốc là 20% còn Nhật Bản, Hàn Quốc trên 50%.
Trên thực tế, như chia sẻ của bà Phạm Thị Thanh Tùng (Vụ Tín dụng các ngành kinh tế – Ngân hàng Nhà nước), nông nghiệp là 1 trong 5 lĩnh vực được Ngân hàng Nhà nước (NHNN) ưu tiên đầu tư tín dụng.
Quy định trần lãi suất cho vay ngắn hạn bằng VNĐ với lĩnh vực này luôn thấp hơn lĩnh vực thông thường 1-1,5%/năm (hiện nay là 7%/năm). Dư nợ nông nghiệp giai đoạn 2010-2015 đã chiếm khoảng 17,6-19% tổng dư nợ cho vay toàn nền kinh tế.
70% DN được nói khó tiếp cận tín dụng và 49% kêu vô cùng khó
Trong hai năm trở lại đây, trong Chương trình cho vay thí điểm phục vụ phát triển nông nghiệp (do Ngân hàng Nhà nước phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Khoa học và Công nghệ), đã có lãi suất thấp hơn lãi suất cho lĩnh vực ưu tiên 1- 1,5%/năm.
Với chương trình này, đến nay, đã có 28 DN tại 22 tỉnh, thành phố tham gia, thực hiện 31 dự án trong 8 lĩnh vực có thế mạnh của nông nghiệp, gồm: 7 DN lúa gạo, 3 DN thủy hải sản, 3 DN sản xuất rau an toàn, 7 DN trong các nông sản khác như mía đường, mủ cao su, chè…
Tổng cộng đã có 8 ngân hàng thương mại cam kết cho vay hơn 5.620 tỷ đồng. Lãi suất cho vay ngắn hạn khoảng 5,4-6,5%/năm, trung dài hạn khoảng 9-9,5%/năm.
Tuy vậy, như quan ngại của bà Phạm Thị Thanh Tùng, đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp có nhiều rủi ro nhưng thiếu các công cụ, cơ chế dự phòng xử lý rủi ro. Chính sách bảo hiểm nông nghiệp chưa được triển khai rộng rãi. Khách hàng khó khăn về tài sản bảo đảm.
Để giải quyết những bất cập trong việc hỗ trợ tín dụng đối với DN nông nghiệp, nhất là theo mô hình chuỗi liên kết, bà Tùng đề xuất cần triển khai rộng rãi chính sách bảo hiểm trong nông nghiệp, đặc biệt đối với các sản phẩm nông nghiệp chủ lực.
Mới đây, trong buổi đối thoại giữa các DN nông nghiệp với Bộ trưởng Bộ NN&PTNT, ông Đinh Cao Khuê, Giám đốc công ty CP Thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao (Ninh Bình), cũng lưu ý Nhà nước cần có chính sách ưu đãi cho các DN chế biến nông sản khi đầu tư xây dựng nhà máy, mua sắm máy móc, thiết bị hoặc phát triển giống cây trồng.
Cần kiến tạo môi trường thuận lợi
Theo kiến nghị của ông Khuê, Nhà nước nên hỗ trợ nguồn vốn vay với lãi suất thấp khoảng 5% và thời gian cho vay đầu tư tối thiểu khoảng 12 năm, đồng thời mở ra và tạo điều kiện cho các DN chế biến nông sản cơ chế vay vốn tín chấp.
Giới chuyên gia cho rằng các DN trong lĩnh vực nông nghiệp, nhất là những DN thuộc dạng nhỏ và vừa, thường khó tiếp cận vốn vay từ ngân hàng vì năng lực quản trị hạn chế trong khi phương án, dự án kinh doanh, vay vốn xây dựng thiếu bài bản.
Ngoài ra, hệ thống sổ sách tài chính kế toán của nhiều DN còn thiếu minh bạch, tiềm lực tài chính yếu, tài sản bảo đảm ít, dễ bị rủi ro, tổn thương… Do đó, nếu họ được các ngân hàng thương mại cho vay vốn thì thông thường phải chấp nhận các điều kiện ngặt nghèo. Chưa kể, nguồn vốn cung ứng trong lĩnh vực này còn hạn chế, lãi suất còn cao. Mặc dù đã có quy định cụ thể và hạn mức cho vay không cần tài sản thế chấp, nhưng nhiều khách hàng chưa đủ uy tín, thiếu phương án kinh doanh khả thi nên các ngân hàng dù rất muốn cũng không thể cho vay.
Có một tình trạng chung là rất nhiều DN không được tiếp cận vốn vay nếu không có tài sản thế chấp. Bên cạnh vấn đề này, giới chuyên gia từ Ngân hàng Thế giới (WB) khuyến nghị rằng bằng cách tập trung vào kiến tạo môi trường thuận lợi, Nhà nước sẽ có thể huy động được nhiều nguồn vốn để từ đó khuyến khích và thu hút đầu tư của nông dân và DN hơn nữa.
Ở những nước thu nhập cao, các chuỗi sản xuất nông nghiệp chủ yếu gồm các DN tư nhân. Mức độ can thiệp của Nhà nước thường hạn chế, chủ yếu nhằm tạo lập, duy trì môi trường thuận lợi cho các DN hoạt động. Điều đó cũng được thể hiện qua điểm số thấp về chỉ số thuận lợi tăng trưởng nông nghiệp của Việt Nam theo đánh giá của OECD.
Thực tế cho thấy, Nhà nước thường có xu hướng can thiệp sâu vào các mối quan hệ giữa các DN. Chẳng hạn như lựa chọn DN thành công để hỗ trợ, tìm đối tác, hoặc xây dựng quan hệ thị trường.
Đây là những ý đồ tốt nhằm thực hiện chủ trương và chi tiêu nguồn vốn công theo hướng khôn ngoan, nhưng theo giới chuyên gia WB, điều này cũng làm méo mó các tín hiệu và giá cả thị trường, loại bỏ quá sớm những đối tượng chậm chạp, cản trở sự thử nghiệm và tinh thần doanh nhân.
Tương tự như vậy, để hỗ trợ kinh doanh trong nông nghiệp cũng đòi hỏi phải thực hiện những chức năng quản lý nhà nước nằm ngoài phạm vi của Bộ NN&PTNT. Chẳng hạn, cần khuyến khích tăng cường mô hình quản trị DN tốt, tạo sân chơi bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế và các DN tham gia tiềm năng (như quy trình cấp phép, thành lập DN minh bạch, hiệu quả).
Thế Vinh