Mới đây, Bộ NN&PTNT vừa ký quyết định phê duyệt Đề án tái cơ cấu ngành hàng lúa gạo Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Theo đó, đến năm 2020, Việt Nam sẽ có 20% lượng gạo xuất khẩu mang thương hiệu gạo Việt Nam, con số này đến năm 2030 là 50%, trong đó có khoảng 30% lượng gạo xuất khẩu là gạo thơm, gạo đặc sản.
Có thể thấy đây là một tương lai khá “sáng sủa” cho ngành lúa gạo và chúng ta có quyền kỳ vọng rằng mục tiêu này sẽ được hiện thực hoá. Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng, trước mắt nhìn vào tình hình thực tế của ngành lúa gạo hiện nay, sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, không chỉ ở thị trường xuất khẩu mà còn ở thị trường trong nước.
Cạnh tranh bằng giá rẻ?
Theo Bộ NN&PTNT, tình hình xuất khẩu gạo tháng 11 qua vẫn bế tắc do thiếu vắng nhu cầu nhập khẩu lớn. Cụ thể, khối lượng gạo xuất khẩu tháng 11 ước đạt 353.000 tấn với giá trị 156 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu gạo 11 tháng ước đạt 4,54 triệu tấn và 2 tỷ USD, giảm 25% về khối lượng và giảm 20,3% về giá trị so với cùng kỳ năm 2015.
Trong khi đó, tại thị trường nội địa, gạo Việt cũng đang gồng mình cạnh tranh với gạo Campuchia, gạo Thái Lan, gạo Hàn Quốc._ Trong đó, gạo cao cấp tại Việt Nam luôn có sự cạnh tranh quyết liệt từ gạo Thái, Nhật, gạo Hàn… Ở phân khúc gạo giá trung bình có sự cạnh tranh mạnh từ gạo Campuchia, Myanmar, Lào…
Vừa qua, tại họp báo triển lãm giao thương doanh nghiệp Hàn Quốc tại Việt Nam, ông Ko Sang Goo, một doanh nghiệp (DN) lớn về nhập khẩu nhiều mặt hàng của Hàn Quốc về Việt Nam, cho biết là gạo Hàn đang được tiếp cận ở thị trường gạo Việt Nam ở phân khúc cao cấp.
“Qua thời gian xuất khẩu thử nghiệm, gạo Hàn được tiêu thụ tốt ở Việt Nam cho dù giá gạo Hàn đắt gấp ba lần gạo Việt. Nguyên nhân chính là do chất lượng gạo Hàn cạnh tranh, kênh phân phối được hỗ trợ bởi chuỗi siêu thị, cửa hàng tiện ích của Hàn Quốc. Bên cạnh đó, gạo ngoại đang được một bộ phận cư dân thành thị ưa chuộng”, ông Goo nói.
30% lượng gạo xuất khẩu là gạo thơm, gạo đặc sản.
Theo thống kê, chỉ trong vòng 10 năm, giá gạo của Việt Nam giảm 13,5%. Năm nay, tỷ lệ sụt giảm này đã ảnh hưởng đáng kể tới mức tăng trưởng chung. Dự kiến 15 – 30 năm tới, giá trị gạo của Việt Nam còn giảm hơn nữa nếu Việt Nam vẫn chưa tìm ra chiến lược phát triển ngành gạo.
Theo các chuyên gia, có hai vấn đề mà Việt Nam cần phải giải quyết. Đầu tiên là cần xây dựng thương hiệu cho ngành gạo và nâng chất lượng gạo từ giống cho tới quy trình sản xuất.
Về thương hiệu, nhiều đánh giá cho thấy, gạo Việt hầu như “trắng” thương hiệu trên thị trường thế giới, gạo của Việt Nam xuất khẩu luôn đứng top đầu thế giới, nhưng đều được nước ngoài nhập khẩu, chế biến lại đóng bao bì và bán dưới tên thương hiệu khác. Trong khi đó, gạo của Campuchia, tuy xuất khẩu rất muộn, sau chúng ta và diện tích chỉ 3 triệu héc ta, nhưng đến nay đã là nhà xuất khẩu thứ 5 thế giới và thương hiệu gạo Campuchia đã được biết đến trên thị trường.
Xuất khẩu “núp” thương hiệu ngoại
Trong một nghiên cứu vừa được Ngân hàng Thế giới công bố chiều ngày 5/12, ông Sergut Zorya, Chuyên gia Nông nghiệp (Ngân hàng Thế giới), đánh giá rằng Việt Nam nổi tiếng về xuất khẩu nông sản thô.
“Tôi đi rất nhiều nước và thấy như Thái Lan tiếp thị rất giỏi về thương hiệu của họ. Thái Lan gạo có thể bán với giá 800 USD/tấn trong khi gạo xuất khẩu của Việt Nam chỉ đạt 400 USD/tấn._Việt Nam cũng cần có các chiến dịch thương mại để đưa gạo Việt vào chuỗi cung ứng trên toàn cầu và nâng giá trị dần dần để định vị thương hiệu gạo Việt Nam trên thị trường thế giới”, ông Sergut Zorya khuyến cáo.
Chất lượng gạo cũng là vấn đề cần phải bàn khi hiện nay Việt Nam vẫn chưa có bộ giống lúa gạo. Cụ thể, Việt Nam có khả năng đáp ứng 100% nhu cầu giống lúa thuần, còn với giống lúa lai, chỉ đáp ứng được 33%, còn lại phải nhập khẩu từ Trung Quốc và Ấn Độ với giá trị nhập khẩu xấp xỉ 35 triệu USD, trong đó, tỷ trọng xuất khẩu các giống lúa chất lượng cao còn thấp, chưa có giống xuất khẩu mang thương hiệu Việt Nam.
Gạo xuất khẩu của Việt Nam chỉ có thể tính theo gạo 5%, 15% hay 25% tấm, chứ ít khi có gạo thơm đặc sản như người Thái đang chào bán gạo Thai Hom Mali với giá trị 830 USD/tấn, cao hơn gần hai lần gạo 5% tấm của Việt Nam.
Báo cáo của Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam 2016 cũng cho thấy, trong vài năm qua, Chính phủ đã lên nhiều kế hoạch cải thiện hệ thống pháp lý bao gồm sửa đổi Quyết định 95 và Pháp lệnh giống dự kiến có hiệu lực vào cuối năm 2016… Tuy nhiên, thời hạn ban hành Luật giống chưa nêu rõ. Điều đó đồng nghĩa với việc doanh nghiệp giống vẫn phải chịu các rào cản về pháp lý trong một thời gian dài nữa._
Bằng chứng là theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới về cho phép kinh doanh nông nghiệp 2016, việc đăng ký giống lúa ở Việt Nam mất 901 ngày và tốn 8.050 USD. Đây là khoảng thời gian dài nhất và chi phí tốn kém nhất trong 40 nước đề cập trong báo cáo này.
Ngoài ra, ngành giống cũng đang bị ngăn chặn bởi sự gia tăng của hạt giống chất lượng thấp và sự thiếu tự tin trong xây dựng thương hiệu. Điều này làm suy giảm nghiêm trọng niềm tin của nông dân và họ sẽ không sẵn sàng trả tiền cho các hạt giống chất lượng cao._
Khi bàn đến vấn đề xuất khẩu gạo, một đại diện doanh nghiệp cũng từng chia sẻ: “Bản thân gạo Việt Nam rất nhiều, chúng tôi có thể làm sản phẩm bán ra nước ngoài từ nguồn gạo đó, nhưng thực tế là chúng tôi chưa nắm bắt được nhu cầu thông tin thị trường hiện nay, chúng tôi phải nói là cực kỳ nghèo thông tin về thị trường xuất khẩu gạo”.
Ông Trần Xuân Định Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn ------------------------------- Trước mắt, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn sẽ triển khai mạnh mẽ một số giải pháp ưu tiên như nghiên cứu phát triển các giống lúa chất lượng phù hợp với nhu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu, trong đó chủ lực là lúa thơm. Ưu tiên lựa chọn ba giống đặc sản tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long để hỗ trợ xây dựng, phát triển thành thương hiệu gạo vùng, địa phương hướng tới trở thành thương hiệu gạo quốc gia bao gồm: giống jasmine, giống lúa thơm và giống nếp đặc sản. Ông Sergut Zorya Chuyên gia Nông nghiệp, Ngân hàng Thế giới ------------------------------- Lúa gạo là sản phẩm quan trọng của Việt Nam nên cần có cơ chế đặc biệt cho sản phẩm này. Như ở Thái Lan, họ có 5-6 loại giống lúa tạo thương hiệu xuất khẩu trong khi ở Việt Nam, có quá nhiều loại giống lúa khác nhau. Vì vậy, rất khó để có thể canh tác và chế biến quy mô lớn.Ông Trần Anh Tuấn Chuyên gia tư vấn thương hiệu ------------------------------- Việt Nam là cường quốc xuất khẩu gạo, nhưng chưa sở hữu những thương hiệu mạnh ở tầm quốc tế. Vấn đề nằm ở chỗ gạo Việt Nam đang thiếu chiến lược xuất khẩu, thiếu sự phối hợp và hỗ trợ của truyền thông để giúp thương hiệu gạo Việt Nam thâm nhập sâu hơn vào thị trường thế giới, như cách mà những đối thủ xuất khẩu gạo khác là Ấn Độ, Thái Lan và thậm chí là Campuchia đã và đang làm, được đánh giá là tốt hơn hẳn so với Việt Nam. |
Lê Thúy