Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ KH&ĐT) cho biết, lũy kế đến ngày 20/1/2019, cả nước có 27.643 dự án FDI còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký khoảng 343 tỷ USD và tổng vốn thực hiện hơn 192 tỷ USD.
Báo cáo của Tổ chức Thương mại và Phát triển của Liên Hợp Quốc (UNCTAD) từng đánh giá Việt Nam nằm trong nhóm 12 quốc gia thành công nhất về thu hút FDI.
Liên kết lỏng lẻo
Việc liên kết giữa DN nội và DN FDI lỏng lẻo vẫn là bất cập lớn nhất khi thu hút đầu tư nước ngoài.
Ông Lê Thanh Liêm, Phó Chủ tịch Thường trực UBND Tp.HCM, cho biết nhờ có đầu tư nước ngoài, công nghiệp của Tp.HCM đã có sự phát triển mạnh nhưng vẫn mang tính chất của nền kinh tế gia công, hàm lượng công nghệ trong các ngành kinh tế chưa cao. Hàm lượng giá trị gia tăng, giá trị lan tỏa của các dự án đầu tư nước ngoài còn thấp.
Trong giai đoạn đầu, các DN FDI thường tập trung vào các dự án thâm dụng lao động (do giá lao động thấp), sau đó chuyển sang các dự án sử dụng nguyên nhiên liệu giá rẻ hoặc thời gian gần đây có các dự án đầu tư để lắp ráp, hoàn thiện công đoạn cuối các sản phẩm.
Bên cạnh đó, việc chuyển giao và tiếp thu công nghệ từ các DN FDI đã được đặt ra từ nhiều năm nay nhưng kết quả rất hạn chế, không như kỳ vọng. Trong thời kỳ đầu của đầu tư nước ngoài, phần lớn các dự án theo hình thức công ty liên doanh, song dần theo thời gian, các dự án liên doanh giảm dần.
Theo ông Nguyễn Đức Chung, Chủ tịch UBND Tp.Hà Nội, việc kết nối giữa DN FDI với DN trong nước còn hạn chế, vì vậy tác động về tính lan tỏa, chia sẻ và chuyển giao công nghệ chưa được như kỳ vọng.
Nguyên nhân chủ yếu là do thiếu nhà cung cấp trong nước có năng lực đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế, chưa có thông tin hệ thống về các nhà cung cấp, các ngành công nghiệp phụ trợ trong nước, trong khi các DN trong nước khó khăn về nguồn vốn, kinh nghiệm… để cải thiện năng lực cạnh tranh theo yêu cầu và nhu cầu của các DN FDI.
Ông Đỗ Thắng Hải, Thứ trưởng Bộ Công Thương, cũng cho rằng liên kết giữa DN công nghiệp hỗ trợ (CNHT) trong nước với DN FDI còn lỏng lẻo, việc chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm quản lý còn khá hạn chế bởi một phần nguyên nhân xuất phát từ chính lĩnh vực đầu tư, định hướng thị trường và hình thức sở hữu của DN FDI.
Hiện nay, FDI vào lĩnh vực công nghiệp vẫn chủ yếu tập trung vào các nhóm ngành định hướng xuất khẩu, thâm dụng lao động như dệt may, da giày, ô tô, xe máy với định hướng thị trường vẫn do người mua (các nước nhập khẩu EU, Mỹ, Nhật Bản…) quyết định nên chủ yếu sử dụng nguyên liệu nhập khẩu trực tiếp làm đầu vào cho sản xuất.
Ở góc độ sở hữu DN, phần lớn DN FDI tại Việt Nam là DN 100% vốn đầu tư nước ngoài do đó đã tạo ra khoảng cách nhất định về tập quán, cách thức sản xuất kinh doanh, trình độ năng lực quản lý với DN CNHT Việt Nam, nên mối liên kết và hiệu quả hợp tác chưa cao.
Việt Nam cần phải xây dựng phiên bản 2.0 về thu hút đầu tư nước ngoài |
Cơ chế thu hút thế hệ mới
Trước thực tế trên, ông Kyle F. Kelhofer, Giám đốc Quốc gia của Tổ chức Tài chính quốc tế (IFC) tại Việt Nam, Lào, Campuchia, cho rằng trong bối cảnh mới, lợi thế về chi phí trong thu hút FDI sẽ dần bị mất đi, nên Việt Nam cần có cơ chế thu hút FDI "thế hệ mới", với kỹ năng lao động, quản trị, mức lương và tiêu chuẩn chất lượng cao hơn, vừa nâng cao năng lực cạnh tranh của DN FDI lẫn DN trong nước và liên kết được hai khối DN này với nhau.
Muốn có chiến lược thế hệ mới đòi hỏi Việt Nam phải tạo ra sự chuyển dịch thu hút chiến lược ở các ngành khác nhau, mang tính tổng thể, chứ không căn cứ vào các DN FDI cụ thể.
Ưu đãi từ thuế nên chuyển sang ưu đãi thông qua hiệu quả đầu tư và giá trị gia tăng, chuyển từ cung cấp dịch vụ sang vừa cung cấp dịch vụ nhưng mang tính tập trung và thúc đẩy hơn việc bảo đảm hoạt động của các DN FDI, tận dụng hiệu quả các hiệp định thương mại tự do.
Từ kinh nghiệm của Hàn Quốc, ông Youngsup Joo, nguyên Bộ trưởng Bộ Phát triển DN nhỏ và vừa Hàn Quốc, cũng cho rằng Việt Nam cần xây dựng phiên bản 2.0 về thu hút FDI, tập trung vào lĩnh vực R&D, thu hút FDI theo chiều ngang, tức là DN Việt Nam không còn là "nhà thầu phụ" nữa mà trở thành đối tác, hợp tác với các DN FDI ở nhiều lĩnh vực khác thay vì chỉ có trong lĩnh vực sản xuất, qua đó hướng tới thị trường khu vực và toàn cầu.
Bên cạnh đó, để có thể tạo bước chuyển biến mạnh mẽ về năng lực cạnh tranh của Việt Nam, vốn và công nghệ sẽ là yếu tố then chốt. Chính vì vậy, trong giai đoạn tới, Việt Nam vẫn cần phải tập trung thu hút đầu tư nước ngoài nhưng theo hướng chọn lọc các dự án có chất lượng, sử dụng công nghệ hiện đại, có giá trị gia tăng cao.
Ts. Nguyễn Đình Cung, Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, cho rằng cần phải chọn lọc hơn trong việc lựa chọn dự án đầu tư, nhà đầu tư. Đó là nhà đầu tư có năng lực tốt, lan tỏa kinh doanh toàn cầu nhiều hơn.
"Ngay từ đầu, chúng ta nên lựa chọn nhà đầu tư có chất lượng tốt, năng lực tốt, lan tỏa kinh doanh toàn cầu mạnh hơn, một khi Việt Nam trở thành cứ điểm của nhà đầu tư – người ta sẽ đầu tư nhiều hơn không chỉ công đoạn lắp ráp mà đầu tư nghiên cứu, phát triển công nghệ, sử dụng nhân lực, từ đó tác động lan tỏa, phát triển chính công nghệ của nước ta", ông Cung chia sẻ.
Để lựa chọn được nhà đầu tư tốt, ông Cung khuyến nghị các địa phương không được cạnh tranh thu hút FDI, vì như vậy sẽ giảm tiêu chí và đưa ra những ưu đãi thiếu thông minh. Nhiều người nói cạnh tranh như vậy là cạnh tranh xuống đáy, nếu nhà đầu tư biết được, chúng ta trở nên yếu thế trong đàm phán.
Đặc biệt, các địa phương cũng cần phải đổi mới hoạt động xúc tiến lựa chọn nhà đầu tư. "Tại sao chúng ta không đến tận trụ sở các tập đoàn xuyên quốc gia, chào mời ý tưởng của mình để cùng nhau thảo luận về các dự án phát triển với nhà đầu tư, hơn là thụ động ngồi chờ người ta đến?", ông Cung đặt vấn đề.
Ông Cung nhấn mạnh, chúng ta không thể thụ động, trông chờ từ nhà đầu tư nước ngoài mà cần phải chủ động tìm kiếm, lựa chọn những DN, tập đoàn đa quốc gia sở hữu công nghệ nguồn, công nghệ lõi. Đồng thời Nhà nước phải xây dựng được chính sách xúc tiến đầu tư hệ thống và bài bản, đi cùng với ưu đãi đủ mạnh về chuyển giao công nghệ để có thể thu hút các tập đoàn đa quốc gia, các nhà đầu tư lớn.
Lê Thúy
Phó Thủ tướng Chính phủ - Vương Đình Huệ Việt Nam cần chuyển đổi phương thức tiếp cận FDI với động cơ chính là thu hút công nghệ cao, lao động chất lượng cao, chủ động thu hút FDI và phân cấp mạnh mẽ cho các chính quyền địa phương như Tp.HCM để thu hút các tập đoàn đa quốc gia "xây tổ"; chuyển tư duy thu hút đầu tư theo quy mô vốn sang tiêu chí dựa vào hiệu quả giá trị gia tăng của dòng vốn FDI. Phó Chủ tịch Thường trực UBND Tp.HCM - Lê Thanh Liêm Hiện nay, chúng ta chưa kêu gọi được các tập đoàn đa quốc gia đặt trụ sở điều hành hoặc trung tâm nghiên cứu phát triển chính tại Việt Nam. Nguyên nhân một phần là do môi trường đầu tư kinh doanh chưa thực sự chín muồi để các tập đoàn tìm đến, một phần là do chúng ta chưa có chính sách quyết liệt dọn chỗ thu hút "phượng hoàng" về làm "tổ". Bộ trưởng Bộ KH&ĐT - Nguyễn Chí Dũng Trong thời gian tới, việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài phải đi vào thực chất hơn, cả về số lượng và chất lượng, theo cả chiều rộng và chiều sâu, trong đó chú trọng chiều sâu, đảm bảo phát triển bền vững, khuyến khích đổi mới, sáng tạo và liên kết chặt chẽ giữa DN đầu tư nước ngoài với DN trong nước, nâng cao vị trí của Việt Nam trong mạng lưới sản xuất, chuỗi giá trị toàn cầu và trình độ, năng lực sáng tạo của lực lượng lao động Việt Nam. |