Theo thống kê của Bộ NN&PTNT, sáu tháng đầu năm 2017, xuất khẩu tôm đạt 1,56 tỷ USD, tăng gần 15,7% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, xuất khẩu tôm chân trắng ước đạt 962 triệu USD, tăng hơn 21%, xuất khẩu tôm sú đạt 414 triệu USD, giảm 6,8%.
Theo đánh giá, sự tăng trưởng này chủ yếu nhờ xuất khẩu tôm sang một số thị trường phục hồi như Nhật Bản, Liên minh châu Âu (EU), Hàn Quốc, trong khi các thị trường Hoa Kỳ, ASEAN và Australia sụt giảm.
Khó vào Hoa Kỳ, Australia
Riêng với thị trường Hoa Kỳ, các doanh nghiệp (DN) nhận định, xuất khẩu vào thị trường này ngày càng khó. Mới đây, Hoa Kỳ vừa thay đổi cách tính thuế với tôm nhập khẩu từ Việt Nam, từ 1,16% lên 1,42% (giai đoạn 1/2/2013 – 31/1/2014) do một nhóm chủ tàu và nhà chế biến Hoa Kỳ khiếu kiện, Ủy ban đặc biệt về Hành động Thương mại Tôm (Ủy ban Tôm) đã khởi kiện và Tòa đã ra lệnh thẩm định lại quyết định của Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC).
Ông Trương Đình Hòe, Tổng Thư ký VASEP, cho biết, đợt điều chỉnh thuế lần này áp dụng giai đoạn trước đây nên sẽ không tác động tới DN xuất khẩu Việt Nam.
Đồng quan điểm, ông Trần Văn Lĩnh, Chủ tịch HĐQT công ty Thủy sản Thuận Phước, cho biết DN sẽ không chịu tác động bởi lần điều chỉnh thuế này vì năm 2013, các DN xuất khẩu theo hình thức CIF và người bán hết trách nhiệm với hàng hóa kể từ khi hàng hóa được giao lên boong tàu do người bán thuê tại cảng đi.
Mọi phát sinh sau thời điểm giao hàng, người mua phải chịu trách nhiệm. Điều này có nghĩa người đóng thuế cho đợt điều chỉnh lần này là bên mua mà không phải là DN xuất khẩu Việt Nam.
Tuy nhiên, theo ông Lĩnh, các DN xuất khẩu tôm hiện nay đang phải đối mặt với nhiều rào cản thương mại mà phía Hoa Kỳ đưa ra. Trong đó, DN lo nhất là thuế chống bán phá giá. “Hoa Kỳ đánh thuế quá cao, ảnh hưởng tới giá thành của sản phẩm, khiến bên mua của Hoa Kỳ không muốn nhập tôm Việt Nam. Thay vào đó, họ có thể lựa chọn tôm của nhiều quốc gia khác nhau”, ông Lĩnh nói.
Ông Lĩnh cho biết thêm, thị trường nào cũng có rào cản nhưng riêng Hoa Kỳ, gần 13 năm nay luôn áp dụng thuế chống bán phá giá với DN xuất khẩu Việt Nam. Đây là rào cản thực sự với Việt Nam. Không chỉ vậy, mặc dù họ đã có biện pháp kinh tế kỹ thuật nhưng thỉnh thoảng họ vẫn áp dụng kiểm tra tăng cường.
“Phía Hoa Kỳ yêu cầu khai báo hải quan, chống khủng bố trước khi vào. Để làm được điều này, DN Việt không thể biện hộ cho mình mà phải thuê đại diện là một công ty Hoa Kỳ đàm phán giúp. Dẫn tới, chi phí thuê rất tốn kém, làm giảm khả năng cạnh tranh của DN Việt”, ông Lĩnh cho biết.
Rào cản xuất khẩu với tôm Việt ngày một nhiều
Được biết, các “đối thủ” chính hiện nay của tôm Việt ở thị trường Hoa Kỳ là Indonesia, Ấn Độ, Thái Lan, những nước đang có lợi thế vượt trội so với chúng ta do không phải chịu mức thuế chống bán phá giá cao như Việt Nam, đồng thời giá thành sản xuất tôm của những nước này cũng thấp hơn Việt Nam rất nhiều. Vì vậy, DN Việt khó có thể cạnh tranh về giá bán.
Trong khi đó, với thị trường Australia, ngày 6/7/2017 vừa qua, Bộ Nông nghiệp và Tài nguyên Australia mới chấm dứt lệnh tạm ngừng nhập khẩu đối với mặt hàng tôm chưa nấu chín của Việt Nam. Tuy nhiên, nước này cho biết, sẽ tiếp tục đưa ra các điều kiện nhập khẩu chặt chẽ hơn để áp dụng sau khi lệnh cấm hết hiệu lực nhằm đảm bảo hoạt động thương mại an toàn đối với tôm và các sản phẩm tôm.
Cạnh tranh khốc liệt
Trước những khó khăn này, tôm Việt đang có xu hướng chuyển sang các thị trường như Nhật Bản, EU, Trung Quốc. Nửa đầu năm nay, Nhật Bản đã vượt Hoa Kỳ trở thành thị trường xuất khẩu tôm số một của Việt Nam.
Đồng thời nhiều DN quan tâm tới thị trường EU vì nhu cầu ổn định và đặc biệt DN xuất khẩu sang đây được hưởng ưu đãi thuế GSP, trong khi Ấn Độ, đối thủ chính của tôm Việt Nam trên thị trường này, lại không được hưởng. Cùng với đó, Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) sắp có hiệu lực cũng là cơ hội để xuất khẩu tôm sang thị trường này có nhiều dấu hiệu tích cực.
Song theo ông Lĩnh, nói việc DN Việt chọn EU, Nhật Bản thay vì Hoa Kỳ chưa hoàn toàn đúng vì với những thị trường như Nhật Bản hay EU, họ cũng đưa ra nhiều rào cản về kháng sinh, dẫn tới chi phí kiểm dịch kháng sinh cao không kém thuế chống bán phá giá mà phía Hoa Kỳ đưa ra.
Ngoài ra, tiềm năng xuất khẩu tôm sang thị trường Trung Quốc lớn nhưng có nguy cơ đối mặt với một số khó khăn như thông tin mạng quản lý phía Trung Quốc yêu cầu, muốn xuất khẩu vào nước này, nhà máy chế biến phải có code vào Trung Quốc và nhà xuất khẩu phải nằm trong danh sách được nước này phê chuẩn.
Hơn nữa, đa phần các thị trường xuất khẩu hiện nay đều yêu cầu chặt chẽ vấn đề chất lượng. Chính vì vậy, để xuất khẩu bền vững, các DN xuất khẩu phải chú ý thực thi những quy định về an toàn thực phẩm và truy xuất nguồn gốc, minh bạch từ nguồn nguyên liệu tới quá trình chế biến nhằm tạo uy tín, thương hiệu của ngành tôm Việt Nam trên thị trường.
Thực tế hiện nay, chưa nói tới câu chuyện xây dựng thương hiệu, ngay từ con giống, ngành tôm Việt vẫn còn phụ thuộc. Thống kê cho thấy, có khoảng 1.800 cơ sở sản xuất tôm giống, với tôm thẻ chân trắng là 566 cơ sở và tôm sú trên 1.300 cơ sở, song Việt Nam vẫn đang phải nhập khẩu tôm thẻ chân trắng giống bố mẹ trên 90%, đồng thời tôm sú dù không phụ thuộc nhập khẩu nhưng lại phụ thuộc nguồn đánh bắt tự nhiên.
Hạn chế lớn nhất của cơ sở sản xuất tôm giống trong nước hiện nay là nguồn tôm bố mẹ hầu hết được đánh bắt tại Vịnh Thái Lan và nhập khẩu nước ngoài.
Trong khi đó, liên quan tới vấn đề ứng dụng công nghệ cao vào nuôi trồng và chế biến, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho con tôm, Ts. Trần Đình Luân, Tổng cục Thủy sản (Bộ NN&PTNT), cho biết, đến nay mới chỉ có UBND tỉnh Kiên Giang công nhận vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao Trung Sơn (Kiên Giang) sản xuất tôm thẻ chân trắng quy mô công nghiệp theo chuỗi giá trị từ nuôi đến chế biến và thương mại. Trên thực tế, có nhiều DN đã đầu tư ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp nói chung và nuôi tôm nói riêng nhưng vẫn chưa làm thủ tục thẩm định, công nhận DN nông nghiệp công nghệ cao.
Bên cạnh đó, muốn gia tăng giá trị phải xây dựng thương hiệu tôm Việt, song vấn đề này vẫn chưa được phía Việt Nam quan tâm. Tôm của Việt Nam đã xuất khẩu sang 90 quốc gia nhưng việc xây dựng thương hiệu con tôm mới chỉ ở những bước đầu. Nhiều người tiêu dùng thế giới chưa biết, chưa hiểu rõ về tôm Việt Nam.
Lê Thúy
Ông Đào Đức Huấn - Giám đốc Trung tâm phát triển nông thôn (Bộ NN&PTNT) Để xây dựng thương hiệu con tôm Việt Nam cần hình thành tiêu chuẩn mang thương hiệu tôm Việt Nam. Song hiện nay, chúng ta có tôm chân trắng, tôm sú, tôm biển, vậy chọn con tôm nào, lấy tiêu chuẩn chất lượng nào để xây dựng thương hiệu. Đây là thách thức lớn nhất để xây dựng thương hiệu tôm Việt trong bối cảnh các thị trường như EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản lại có quy cách chế biến, sở thích mẫu mã, chế biến khác nhau, thậm chí việc kiểm soát phụ gia cũng khác nhau… Ông Đặng Quốc Tuấn - Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Việt – Úc Ngành tôm Việt Nam phải thật sự chuyển mình trở thành ngành công nghiệp tôm mà không thể cứ theo hướng sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ như thời gian qua, nhất là khi Việt Nam không phải là nước duy nhất xuất khẩu tôm vì nhiều nước khác cũng đã bắt đầu tham gia. Thậm chí, một số quốc gia trong khu vực như Thái Lan, Malaysia hiện vẫn nằm ngoài tốp 10 nước xuất khẩu tôm lớn nhất nhưng bằng những tiến bộ khoa học công nghệ, họ có khả năng sản xuất được số lượng lớn trong tương lai. Ông Hồ Quốc Lực- Tổng Giám đốc công ty Cổ phần Thực phẩm Sao Ta Xuất khẩu tôm Việt Nam sẽ vẫn tiếp tục gặp nhiều trở ngại khi hàng rào kỹ thuật ở một số nước kiểm soát ngày càng gay gắt, khó khăn như thị trường Hoa Kỳ yêu cầu tiêu chuẩn BAP (thực hành nuôi trồng thủy sản tốt nhất từ con giống, ao nuôi, thức ăn). |